Tuệ Nguyên Đại Tông sư, người Nối truyền Pháp mạch Thiền phái Tào Khê, Phật giáo Hàn Quốc
(고산당 혜원대종사행장, 杲山堂 慧元大宗師行狀)
(1933-2021)
Cảo San đường Tuệ Nguyên Đại Tông sư (고산당 혜원대종사, 杲山堂 慧元大宗師) sinh ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại huyện Ulju, Ulsan, một thành phố nằm ở phía đông nam Hàn Quốc, giáp với biển Nhật Bản. Ngài vốn sinh trưởng trong tộc phả danh gia vọng tộc, phụ thân Họ Ngô (해주오씨, 海州吳氏), Haeju, Bắc Triều Tiên và tộc phả của mẫu thân họ Park (밀양박씨, 密陽朴氏), Miryang, Gyeongsangnam-do, Hàn Quốc.
Năm lên 7 tuổi, Ngài được sự giáo huấn của người cha kính yêu tuyệt vời, cụ đã dạy các bộ sách Luận ngữ, Mạnh Tử, Thích Độ, Đại Học, Tứ Thư và học trường tiểu học phổ thông.
Vào tháng 3 năm Ất Dậu (1945), khi được 13 tuổi, Bồ đề tâm khai phát để làm tiền đề cho Bát Nhã đơm bông, Ngài đảnh lễ Đại Thiền sư Đông San Tuệ Nhật (동산혜일대선사, 東山慧日大禪師, 1890-1965) cầu xin xuất gia tu học Phật pháp. Thật là “Đàm hoa nhất hiện” khi những sợi tóc não phiền rơi rụng theo từng nhát kéo đong đưa. Tháng 3 năm 1948, Ngài được Hòa thượng Bản sư truyền thụ giới Sa di tại Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan, Hàn Quốc.
Năm 1956, Ngài được Hòa thượng Bản sư cho đăng đàn thụ Cụ túc giới (Tỳ kheo 250 giới), thụ Bồ tát giới. Từ đây; Ngài nhẹ gót thênh thang trong rừng Thiền thăm thẳm, lướt sóng tung tăng trên biển Pháp mêng mông, nghiên tầm tham cứu Tam tạng giáo điển.
Từ khi xuất gia làm Thích tử, Ngài nỗ lực hết sức trong bổn phận của người tu sĩ, không ngại ngùng gian lao khó nhọc, núi cao sự nghiệp càng cao, biển sâu chí khí thêm vào càng sâu. Ngài đã từng vân du đó đây tham học và tích công bồi đức trong các chốn sơn môn như Tổ đình Phạm Ngư Tự (범어사, 梵魚寺), Geumjeong-gu, Busan; Pháp Bảo Hải Ấn Tự (해인사, 海印寺), Gyeongsangnam-do; Trực Chỉ Tự (직지사, 直指寺), Gimcheon-si, Gyeongsangbuk-do; Thanh Nham Tự (청암사, 靑巖寺), imcheon-si, Gyeongsangbuk-do, đến đâu, nơi nào Ngài cũng hòa mình cùng đại chúng công quả, tinh tấn trong tu học.
Năm Tân sửu (1961), Ngài đến tỉnh Gangwon-do, phía Đông Bắc của Hàn Quốc đảnh lễ Thiền sư Cao Phong (고봉선사, 高峯禪師, 1890–1962) cầu xin y chỉ và học về "Đạo lý Thiền Giáo nhất như" (선교일여도리, 禪敎一如道理) và nghiên cứu Cao Ly Đại Tạng kinh. Sau đó, Ngài trên cương vị giáo thụ sư giảng dạy Phật học tại các sơn môn Thanh Nham Tự, imcheon-si, Gyeongsangbuk-do, Phạm Ngư Tự, Geumjeong-gu, Busan.
Năm Nhâm Tý (1972), Ngài bái kiến Trưởng lão Đại Luật sư Tích Nham (석암대율사, 錫岩大律師) cầu xin Y chỉ nghiên tầm thêm Luật học. Dừng tất cả việc Phật sự, giảng dạy, chuyên tâm vào công phu tu tập Tổ sư thiền, tham thoại đầu, sau khi đã đạt sự chứng ngộ Thiền đạo rồi Ngài tiếp tục tuyên dương Diệu pháp Như Lai.
Năm Ất Mão (1975), được sự tín nhiệm của chư tôn giáo phẩm tăng già Thiền phái Tào Khê, bổ nhiệm Ngài đảm trách trụ trì Song Khê Tự (쌍계사, 雙磎寺), Giáo khu 13 của Thiền phái Tào Khê, 59 Ssanggyesa-gil, Hwagae-myeon, Hadong-gun, Gyeongsangnam-do. Từ đó, Ngài với lý tưởng Bồ tát đạo, Ngài phát nguyện làm lợi ích cho chúng sinh, không kể đến thân mạng, chỉ một lòng giải quyết nỗi khổ niềm đau cho tha nhân; Ngài vân du khắp đó đây tùy duyên hóa độ, hoằng pháp lợi sinh.
Cùng với việc hoằng dương chính pháp Phật đà, Truyền giới sư và quản lý điều hành các cơ sở tự viện, tùng lâm Phật học cũng là những Phật sự. Ngài đã đảm nhiệm trụ trì các ngôi già lam Đông Lai Bố Giáo đường Phạm Ngư Tự, (범어사 동래포교당, 梵魚寺東萊布敎堂), Busan; Tổ đình Tào Khê Tự, Trụ trở Trung ương Thiền phái Tào Khê, thủ đô Seoul; Ngân Hải Tự (은해사, 銀海寺), Yeongcheon-si, Gyeongsangbuk-do; Song Khê Tự (쌍계사, 雙磎寺), Giáo khu 13 của Thiền phái Tào Khê, Gyeongsangnam-do; Am Quốc Sư (국사암, 國師庵), Yeosu-si, Jeollanam-do; Tinh xá Tuệ Uyển (혜원정사, 慧苑精舍), Yeonje-gu, Busan; Thích Vương Tự (석왕사, 釋王寺), Chuncheon-si, Gangwon-do; Liên Hoa Tự (연화사, 蓮華寺), Dongdaemun-gu, Seoul; Am Phổ Đức (보덕암, 普德庵), Geumgang-gun, Gangwon-do; Truyền Thông Tự (전통사, 傳通寺), Yongin-si, Gyeonggi-do, các Giáo khu Bản tự (교구본사, 教區本寺).v.v và đóng vai trò tiên phong bởi một chức sự điều hành Phật sự.
Năm 1998, được sự tôn kính của Tăng đoàn Thiền phái Tào Khê, Ngài được Tấn phong ngôi vị Tổng vụ Viện trưởng Thiền phái Tào Khê đời thứ 29.
Những năm 2006-2008, Ngài được tín nhiệm của Hội đồng Giám luật của Thiền phái Tào Khê tấn phong Ngài trên cương vị Tuyên Luật sư Hòa thượng Truyền giới (전계대화상, 傳戒大和尙).
Tại ngôi già lam Liên Hoa Tự (연화사, 蓮花寺), Dongdaemun-gu, Seoul, Ngài có đủ duyên để dành hết tâm quyết vào việc giáo dục đào tạo tăng tài và hoằng chính pháp Phật đà.
Một hôm trong dịp đăng lâm pháp tòa tuyên dương Diệu pháp Như Lai, tứ chúng vây quanh lễ bái, Ngài dộng trụ trượng ba lần thuyết kệ rằng:
上堂打柱杖
三下云
釋迦彌勒不相干
只貴革凡成聖事
步步超昇三界境
處處無非華藏界
Thích Ca Di Lặc chẳng liên quan,
Chỉ quý chuyển phàm nhập Thánh bang;
Mỗi bước vượt lên ngoài ba cõi,
Đâu không Hoa Tạng giới thênh thang.
Thích Nguyên Hiền dịch
Người muốn liễu ngộ nhất đại sự hãy tham công án này rõ ràng:
欲了一大事者
於本叅公案上
切切叅詳
十四時中
單單不昧
疑團獨露
漸入佳境
到此時節
取捨不得
忽然踏着
法王城了
達一大事
切須勉之.
Tham tham tha thiết,
Ngày mười bốn thời,
Quyết không mê muội;
Khối nghi hiển lộ.
Dẫn vào cảnh tốt,
Đến thời điểm này,
Không nắm không buông;
Hốt nhiên bước vào,
Thánh trí Pháp vương
Đạt nhất đại sự
Cần phải cố gắng.
Thích Nguyên Hiền dịch
Tụng rằng:
頌曰
木人歌曲石女舞
火中生蓮萬民安
雲散淸空明月照
千年枯木更生花
Người gỗ gái đá hát ca vang,
Sen cười trong lửa vạn dân an,
Mây vén trời xanh ngời ánh nguyệt;
Cây khô muôn thuở trổ hoa vàng.
Thích Nguyên Hiền dịch
Lại tụng rằng:
頌曰
一念頓亡生死心
息心當處卽菩提
打柱杖三
下遂下座
Một niệm tiêu trừ tâm sinh tử,
Ngay ở nơi tâm tức Bồ đề.
Thích Nguyên Hiền dịch
Ngài nói xong, dộng trụ trượng ba cái rồi xuống tòa.
Trong sự nghiệp giáo dục, Ngài từng trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Quản trị Đại học Tăng già Trung Anh (중앙승가대학교, 中央僧伽大學校, Joong-Ang Sangha University) Phật giáo Hàn Quốc; Giám đốc Pháp nhân trường học, Học viện Donguk (동국학원, 東國學院); Hiệu trưởng trường Trung học Hổ Khê (호계중학교, 虎溪中學校). . .
Vì tương lai thế hệ trẻ Trí Đức lưỡng toàn, Ngài thành lập Quỹ học bổng Cảo San để bồi dưỡng học sinh, sinh viên có thành tích tốt trong học tập gồm các cấp Trung học phổ thông và Đại học.
Năm 2013, Ngài được sự tín nhiệm của Tăng đoàn Thiền phái Tào Khê tín nhiệm đề bạt cương vị Trưởng phòng Tùng Lâm Song Khê (쌍계총림, 雙磎叢林).
Tự biết thân tứ đại giả hợp đến lúc phải thuận theo tự nhiên sinh diệt, trước khi từ giã trần gian, Ngài hoan hỷ sai thị giả lấy bút nghiên đến và thảo kệ lâm chung rằng:
임종게
춘래만상생약동
추래수장대차기
아어일생환인사
금조수섭귀고리
Xuân tươi muôn vật ươm mầm,
Thu về chờ đợi thì thầm mùa sau;
Đời như mộng huyễn nương nhau,
Sáng nay thu vén qua cầu cố hương.
臨終偈
春來萬像生躍動
秋來收藏待次期
我於一生幻人事
今朝收攝歸故里
Xuân lai vạn tượng sinh dược động
Thu lai thu tàng đãi thứ kỳ
Ngã ư nhất sinh ảo nhân sự
Kim triêu thu nhiếp quy cố lý.
Dịch:
Xuân đến cỏ cây chớm đâm chồi,
Thu về ẩn nhẫn đợi mùa thôi;
Ta ngắm cuộc đời như huyễn mộng,
Sáng nay trở lại cố hương chơi.
Việt dịch Thích Nguyên Hiền
Hiện thân vào tộc họ tôn quý, xuất gia hành đạo Bồ tát, tâm nguyện dấn thân phụng sự đạo pháp, phục vụ nhân sinh trên tinh thần vô ngã vị tha, với sứ mệnh trụ trì hoằng pháp lợi sinh, tác Như Lai xứ, hành Như Lai sự, hóa duyên ký tất, Ngài đã thanh thản hồn nhiên trút hơi thở, xả báo thân, nhập chân tính tại chính điện Tùng Lâm Song Khê vào lúc 8 giờ 46 phút sáng ngày 23 tháng 3 năm 2021, trụ thế 89 xuân, Pháp lạp 74 Thu.
Đương thời, Ngài từng dạo bước thong dong trong rừng thiền thăm thẳm, đầy cảm hứng tung tăng bơi lội trong đại dương Tam tạng Thánh điển (경율론, 經律論), là tấm gương vị trưởng lão tiêu biểu của Thiền phái Tào Khê về sự nhất trí trong tự lực tự cường "Thiền nông nhất trí" (선농일치, 禪農一致). Ngài nhấn mạnh sự kết hợp giữa thiền, chấp tác lao động và ngoài thiền viện như làm ruộng, cuốc đất trồng hoa màu. Tuy tuổi cao sức yếu nhưng Ngài vẫn mỗi ngày cùng đại chúng chấp tác lao động và nêu cao câu khẩu hiệu "một ngày không làm, một ngày không ăn" (일일불식, 一日不作 一日不食).
Về sự ứng xử thông minh trong thế giới tương đối đầy mâu thuẫn và nhiều khổ đau, Ngài thường nhấn mạnh rằng, "Ngay khi ở nơi bẩn thỉu, chúng ta vẫn tỏa ngát hương đức hạnh cao khiết" (처염상정, 處染常淨); "Có quá nhiều người phải vật lộn vì thế giới đầy xung đột. Hạnh nguyện của tôi mãi tỏa sắc hương, như Liên hoa nở giữa vũng bùn tanh hôi".
Những tác phẩm của Ngài Giảng nghĩa và biên soạn lưu lại cho hậu thế:
Giảng nghĩa Đôn Hoàng bản Lục tổ Đàn Kinh (돈황본 육조단경강의, 敦煌本 六祖壇經講儀), giảng giải Pháp môn giới Bồ tát (보살계법문강의, 菩薩戒法門講儀), Giảng nghĩa Kinh Phạm Võng (범망경강의, 梵網經講儀), Hai mươi bài Ca ngợi Bồ tát Quán Thế Âm (관음찬 이십송, 觀音讚二十頌), Hai mươi bài Ca ngợi Bồ tát Địa Tạng (지장찬이십송, 地藏讚二十頌), Giảng nghĩa Luận Đại thừa Khởi Tín (대승기신론 강의, 大乘起信論講儀), Giảng nghĩa Ma ha Bát nhã Ba la mật Đa Tâm kinh (마하반야심경 강의, 摩訶般若波羅蜜多心經講儀), Giảng nghĩa Kinh Kim Cương (금강경 강의, 金剛經講儀), Giảng nghĩa Kim Lăng Nghiêm (능엄경강의, 楞嚴經講儀), Giảng nghĩa Kinh Pháp Hoa (법화경강의, (法華經講儀), Giải nghĩa Kinh Kim Cương Ngũ gia giải (금강경오가해, 金剛經五家解), (유마힐경강의, 維摩詰經講儀), Giảng giải Tổ sư Ngữ lục (조사어록, 祖師語錄). . .
Ngài biên soạn các tác phẩm: Nghi phạm Trà đạo (다도의범, 茶道儀範), Ca khúc là Tâm là Phật, tức Tâm tức Phật (노래시집 마음이 부처다 마음이 부처다, 歌曲是心是佛, 卽心是佛), Song Khê Tòng Lâm Tân Thư (쌍계총림신서, 雙磎叢林新書), Ba mươi lăm bài Ca ngợi Thưởng trà (음다삼십오송, 飮茶三十五頌),
先傳佛心印恩法師扶宗樹敎杲山堂慧元大宗師覺靈
clip video
(BBS뉴스) 부산 혜원정사, 고산스님 추모 전시관 개관
https://www.youtube.com/watch?v=aCO-uG72qNE
https://www.youtube.com/watch?v=gtPLLgw2aq8
https://www.youtube.com/watch?v=fWOv5DIIXyY
https://www.youtube.com/watch?v=ku5qzEoVzfU
https://www.youtube.com/watch?v=QSvIcmdchxo&t=82s
https://www.youtube.com/watch?v=QSvIcmdchxo
Biên soạn Thích Vân Phong
Dịch thi, kệ Thích Nguyên Hiền