Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương Năm: Thiền Định

02/04/201108:49(Xem: 3103)
Chương Năm: Thiền Định

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN HAI
CHƯƠNG NĂM
THIỀN ĐỊNH

Bấy giờ Retchung thưa hỏi, “Bạch Đạo sư, những trường hợp nào đưa ngài đến việc từ giã Tổ Marpa ? Lama Marpa yêu cầu ngài ở gần Tổ một vài năm. Ngài đã ở được bao lâu ?”

Đạo sư trả lời:

Thầy đã không ở đó nhiều năm. Vài hoàn cảnh đưa thầy về viếng thăm làng cũ. Trong khi ẩn tu bình thường thầy không ngủ, nhưng một buổi sáng sớm thầy chợp ngủ và có giấc mộng như vầy: Thầy đến làng Kya Ngatsa của thầy. Ngôi nhà Bốn Cột và Tám Xà của thầy xiêu nát như tai một con lừa già. Mưa xuyên qua khắp nhà và đã làm hư hại những cuốn kinh, bộ Lâu Đài những Châu Ngọc.(1) Miếng đất của thầy, Tam Giác Phì Nhiêu lấp đầy cỏ dại. Mẹ thầy và những bà con đã chết. Em thầy bỏ đi lang thang và xin ăn. Bởi vì những bà con của gia đình thầy đã như những kẻ thù chống lại mẹ con thầy, nên từ thuở nhỏ, thầy đã xa cách mẹ và đã không gặp lại mẹ. Ý nghĩ này gây cho thầy đau khổ bao la. Thầy gọi tên mẹ và em và khóc. Thầy thức dậy và gối thầy ướt đẫm nước mắt.

Thầy trở nên nghĩ ngợi và gợi nhớ kỷ niệm về mẹ thầy. Thầy khóc nhiều và quyết định làm điều gì cần thiết để thấy lại bà. Sáng ra, thầy phá bức tường thất ẩn tu và đến gặp lama. Ngài đang ngủ. Thầy đến gần ngài, và khiêm hạ cúi mình nơi đầu giường ngài, thầy hát bài ca:

“Ôi đạo sư, đức Phật Bất Động,
Xin gởi kẻ ăn mày nghèo khó này trở về quê cũ
Trong thung lũng Kya Ngatsa
Mẹ và con, bà con thù ghét,
Chúng con đã xa cách nhau nhiều năm.
Tình thương của con không thể chịu đựng nữa chia ly.
Xin hãy để cho con thấy mẹ chỉ lần này nữa
Và con sẽ trở lại không chậm trễ.”

Thầy cầu xin như vậy. Lama tỉnh giấc. Vào lúc đó mặt trời mọc lên và qua cửa sổ những tia sáng của nó chiếu trên đầu ngài. Cùng lúc sư mẫu đi vào, mang đến bữa ăn sáng. Lama nói :

“Này con, tại sao con thình lình phá vỡ cuộc nhập thất nghiêm mật của con ? Nó có thể làm nảy sanh nhiều chướng ngại bên trong và mở cửa cho Ma.(2) Hãy trở lại và ở lại trong đơn độc.”

Một lần nữa thầy nói với ngài về giấc mộng của thầy và nài nỉ ngài:

“Ôi Đạo sư Bi Mẫn, đức Phật Bất Động,
Xin gởi kẻ ăn mày nghèo khó này trở về quê cũ.

Trong làng Kya Ngatsa của con,
Những tài sản của con không có gì còn lại,
Tuy nhiên có nhiều điều làm con lo sợ.

Con muốn nhìn thấy căn nhà của con, Bốn Cột và Tám Xà,
Đã sụp đổ hay còn đứng vững;

Thấy có phải bây giờ mưa rơi từng giọt
Trên những kinh điển, Lâu Đài những Châu Ngọc;

Thấy có phải miếng đất tốt tươi, Tam Giác Phì Nhiêu,
Cỏ dại mọc đầy như đồng hoang cỏ dại;

Thấy có phải thân thể mẹ già
Bây giờ đang khỏe mạnh;

Thấy có phải em con, Peta Che Chở Hạnh Phúc,
Bây giờ là một kẻ hành khất lang thang;

Thấy có phải Zessay, dính dấp với con bằng mối dây nghiệp quả
Bây giờ có thể đã được gả cho ai;

Thấy có phải ông chú của con và hàng xóm, Yung Chiến Thắng,
Còn sống và đã già nua;

Thấy có phải thím con, Quỷ Cái Dữ Như Cọp
Vẫn còn sống hay đã chết rồi ;

Thấy có phải thầy tu của gia đình, Konchok Lhabušm,
Có còn sống ở nơi kia.

Nhưng trên tất cả là thấy mẹ của con
Người sinh ra con, thân thể và tâm thức,
Lòng mong nhớ đối với người không thể nào chịu nổi.

Xin để cho con đi về quê hương chỉ một lần thôi,
Và con sẽ nhanh chóng trở lại với Thầy.”

Thầy cầu khẩn như vậy và lama trả lời :

“Con nói gì thế, hỡi con? Khi lần đầu tiên con đến với ta con đã nói rằng con không còn dính dáng với quê hương hay họ hàng. Bây giờ thì con muốn các thứ. Nếu con đi về làng không chắc con sẽ gặp mẹ con. Về phần những người khác, thầy e ằng họ không còn ở đó. Con đã sống vài năm trong vùng UŠ và Tsang, và nhiều năm ở đây với thầy. Nếu con muốn đi, thầy sẽ để cho con đi. Nhưng nếu con nghĩ đến việc trở lại, thì hãy biết rằng khi con đến đây xin thầy và thấy thầy đang ngủ, đó là điềm báo trước rằng chúng ta sẽ không gặp nhau lại trong đời này nữa.

“Tuy nhiên, mặt trời mọc lên trong không gian báo trước rằng con sẽ làm cho Phật pháp chiếu sáng rực rỡ như mặt trời. Quan trọng hơn hết, những tia sáng mặt trời chiếu vào đầu thầy nói cho biết rằng Giáo Pháp Kagyuš sẽ truyền bá rộng xa. Sư mẫu mang bữa ăn đến nghĩa là con được nuôi dưỡng bằng thực phẩm tâm linh. Bây giờ, chỉ có thầy chịu trách nhiệm để cho con đi. Này Dakmema, hãy dọn một lễ cúng đặc biệt.”

Lama sửa soạn mạn đà la và sư mẫu sắp xếp đồ cúng. Lama truyền cho thầy lễ Quán Đảnh Con Đường của sự Thức Tỉnh theo khẩu truyền bí mật nhất của những dakini và cũng ban cho thầy toàn bộ giáo huấn về con đường Giác Ngộ. Những cái này chỉ được trao truyền từ một thầy đến một trò và bởi thế những người khác không thể biết. Rồi lama nói:

“Thật ra những giáo huấn này do Đạo sư Naropa ban cho thầy, ngài dặn phải trao truyền chúng lại cho con. Và đến phiên con, con phải truyền giáo pháp khẩu truyền này cho một người trong những đệ tử thân cận nhất của con, do những dakini chỉ định, và đặt y dưới sự cam kết phải duy trì dòng truyền một thầy một trò liên tục trong mười ba thế hệ. Nếu con cho những giáo huấn này để đổi lấy thực phẩm, giàu có hay chỉ để làm vui lòng người khác thì con sẽ chịu sự trừng phạt của những dakini. Hãy giữ chúng trong lòng, và tự mình thực hành. Nếu bao giờ có một đệ tử tiền định đến với con, thì dù y không có lễ vật gì để cúng dường, cũng phải kết nối nó với con bằng quán đảnh và giáo huấn để bảo toàn giáo pháp. Thử thách, điêu luyện một đệ tử, như Tổ Tilopa làm với Tổ Naropa, hay như thầy làm với con, sẽ không lợi lạc cho những tâm thức chưa phát triển. Hãy ban những giáo pháp với sự phân biệt khéo léo.

“Ở Ấn Độ hiện có chín loại khẩu truyền của chư dakini, chúng không quá chặt chẽ như sự trao truyền một người qua một người giữa thầy và trò. Những cái này thầy đã cho con bốn cái. Năm cái kia, một người nào trong dòng chúng ta sẽ đi và thỉnh cầu từ những đệ tử của Tổ Naropa. Chúng sẽ lợi lạc cho chúng sanh. Con hãy cố gắng học chúng.

“Nếu con nghĩ rằng con chưa nhận hết toàn bộ giáo pháp của thầy vì con có ít lễ vật để dâng thầy, thì hãy biết rằng thầy chẳng lưu ý gì đến lễ vật. Chính sự cúng dường lòng nhiệt thành tinh tấn đối với chứng ngộ và sự siêng năng của con mới đem lại cho thầy niềm vui. Hãy nhiệt tình và giương cao ngọn cờ của sự hoàn thiện.

“Trong những giáo huấn của bậc Tôn Kính Naropa, có sự khẩu truyền bí mật của chư dakini mà không có ai trong số những đại đệ tử khác đã nhận được. Thầy đã trao tất cả nó cho con như rót từ một bình đầy.”

Đạo sư của thầy xin bổn tôn yidam chứng giám cho những giáo pháp của ngài không sai lầm và những giáo huấn của ngài không thiếu sót. Đã thề như vậy, ngài Marpa hát :

“Con lễ lạy và cầu nguyện trước mặt Ngài, bậc đại bi toàn mãn.
Chiêm nghiệm cuộc đời của những Đạo sư, người ta thấy rằng
Dầu một tham muốn có thêm giáo huấn cũng là một phóng dật.
Hãy hộ trì tinh túy của giáo pháp toàn vẹn trong lòng con.

Nhiều giải thích luận bàn mà không có bản tánh tinh túy
Thì giống như nhiều cây mà không quả.
Dù chúng có tất cả hiểu biết, chúng không phải là chân lý tối hậu.
Biết tất cả chúng không phải là biết chân lý.

Nhiều minh giải chẳng đem lại lợi lạc tâm linh gì
Cái đem lại lợi lạc là kho tàng thiêng liêng trong tâm của chúng ta
Nếu con muốn giàu, hãy tập trung vào đó.

Pháp là phương tiện thiện xảo để hàng phục nhiễm ô.
Nếu con muốn được bảo đảm, hãy trụ trong đó.

Một tâm thức không bám luyến là Đạo Sư Mãn Nguyện.
Nếu con muốn có một đạo sư tuyệt vời, hãy tập trung vào đó.
Cuộc đời thế gian gây ra nước mắt ; hãy bỏ hết biếng lười.
Một động đá hoang vu là ngôi nhà của người cha tâm linh của con.
Một nơi chốn vắng vẻ và đơn độc là chỗ ở thiêng liêng.

Tâm thức cỡi trên tâm thức là một con ngựa không mệt mỏi.
Thân của con là một chánh điện và là một lâu đài cõi trời.
Thiền định và hành động không phóng dật là phương thuốc tốt nhất của ba cõi.
Với con, kẻ có mục tiêu thực sự là Giác Ngộ
Thầy đã ban cho giáo huấn không một chút dấu che.

Bản thân thầy, giáo huấn của thầy, và tự thân con,
Cả ba được đặt trong bàn tay con, hỡi con thương quý.
Nguyện chúng phồn vinh như lá, cành và quả,
Không hư thối, không tản mác hay héo khô.”

Ngài hát như thế. Rồi đặt hai tay lên đầu thầy, ngài nói, “Con ơi, sự ra đi của con làm trái tim thầy tan vỡ. Vô thường là dấu ấn của mọi sự duyên sanh, chúng ta chẳng thể làm gì cho chúng. Nhưng hãy ở đây ít ngày. Hãy nghiền ngẫm những giáo huấn và nếu con có vài chỗ không chắc, hãy làm sáng tỏ chúng.”

Và như vậy thầy ở lại vài ngày theo lệnh của lama và làm sáng tỏ những phần chưa rõ và nghi ngờ về giáo huấn. Rồi lama nói, “Sư mẫu, hãy sửa soạn một lễ cúng với những đồ cúng tốt nhất. Bây giờ Mila sắp ra đi và tôi phải nói lời từ biệt.”

Sư mẫu dâng một lễ cúng cho lama và yidam, những đồ cúng cho chư dakini và những thần hộ pháp, và sửa soạn một bữa tiệc cho huynh đệ nhập môn. Giữa đại chúng, lama biểu lộ thành những hình tướng Yidam Hevajra, Chakrasamvara, Guhyasamaja và những pháp khí khác: chày kim cương và chuông, bánh xe quý báu, hoa sen, cây kiếm...; ba chữ OM, AH, HUM(3) màu trắng, đỏ và xanh, và mọi ánh sáng thấy được và không thấy được.

Rồi ngài nói, “Đây là những sự biến hóa tâm vật lý kỳ diệu. Phô diễn chúng mà không có mục đích chân thật là điều không tốt. Thầy đã biểu lộ chúng vì dịp ra đi của Milarepa.”

Đã thấy lama là một vị Phật Sống, thầy tràn đầy đại hỷ lạc. Thầy nghĩ thầy cũng phải cố gắng để thành tựu những năng lực thần diệu như thế qua thiền định của mình.

Lama hỏi thầy, “Con đã thấy và con có tin vào những biến hóa này không ?”

“Bạch thầy, con quá tràn ngập đến độ con không chỉ tin. Con nghĩ rằng con sẽ cố gắng để có thể làm như vậy qua thiền định.”

“Tốt, nếu như thế, con ơi, bây giờ con có thể ra đi. Bởi vì thầy đã thấy mọi sự là như huyễn, con hãy thực hành theo như vậy. Hãy nương náu trong đơn độc của núi cao, tuyết trắng hay những khu rừng. Trong các núi non hoang vu, có Gyalgyi Sri (Chiến Thắng Vinh Quang) vùng Latoš, nó đã được những vị thánh vĩ đại nhất của Ấn Độ ban phước. Hãy đến đó thiền định. Có Núi Tisi (Kailas)(4) đã được đức Phật nói đến với tên Ganchen (Núi Tuyết) và là cung điện của Yidam Chakrasamvara. Hãy đến đó thiền định. Có Lachi Gangra, nó là Gandavari, một trong hai mươi bốn thánh địa. Hãy đến đó thiền định. Có Riwo Palbar vùng Mangyul và Yolmo Gangra của Nepal, đó là những chỗ thiêng liêng có tiên tri trong những kinh điển Đại thừa. Hãy đến đó thiền định. Có Drin Chuwar, chỗ ở của những dakini bảo vệ toàn miền. Hãy đến đó thiền định.

“Hãy thiền định bất cứ nơi hoang vắng nào khác thích hợp. Hãy giương cao ngọn cờ thiền định ở mỗi nơi.

“Kế cận nhau ở phía đông có hai đại thánh địa là Devikoti và Tsari. Nhưng chưa đến lúc khai mở chúng. Trong tương lai những con cháu tâm linh của con sẽ trụ ở đó. Nhưng chính con, trước hết hãy đi đến thiền định trong những nơi chốn thiêng liêng đã nói ở trên. Nếu con thiền định, tức là con phụng sự cho đạo sư của con, con sẽ biểu lộ lòng biết ơn của con cho cha và mẹ ; và con sẽ thành tựu những mục tiêu của tất cả chúng sanh. Nếu con không thể thiền định, thì đó sẽ chỉ là sự tăng thêm những hoạt động xấu trong suốt cuộc đời. Vì lý do ấy, hãy hiến mình cho thiền định, hoàn toàn từ khước những ràng buộc đam mê của cuộc đời này, và hãy từ bỏ những liên hệ với những người tìm kiếm lạc thú.”

Khi ngài nói những lời này, nước mắt chảy đầy trên má ngài. “Cha con chúng ta sẽ không còn gặp lại nhau trong kiếp sống này. Thầy sẽ không quên con. Con chớ bao giờ quên thầy. Và như thế, hãy vui mừng rằng nơi cõi Trên, chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhau trong Cõi của chư Dakini.(5) Một ngày kia, trong khi thực hành một pháp nào đó, con sẽ gặp một chướng ngại. Khi đó, hãy xem cái thầy đang đưa cho con đây. Chớ có xem nó trước đó.” Và lama đưa cho thầy một cuộn giấy niêm bằng sáp.

Thầy in sâu trong lòng những lời sách tấn cuối cùng này của lama. Về sau, mỗi lời nói đó đã làm mạnh thêm lòng sùng mộ của thầy.

Cuối cùng, lama nói, “Sư mẫu, hãy sửa soạn cho Mila Kim Cương Ngọn Cờ Chiến Thắng khởi hành sáng mai. Dù là một dịp buồn, tôi cũng muốn đi với Mila một đoạn đường.” Và ngài nói với thầy, “Hãy đến đây và ngủ cạnh thầy đêm nay. Cha con ta còn được một lần trò chuyện nữa.” Và thầy ở lại với lama. Khi sư mẫu vào bà sụt sùi khóc.

Lama nói với sư mẫu, “Dakmema, tại sao bà khóc ? Chẳng lẽ vì Mila đã có những giáo huấn của truyền thống khẩu truyền từ lama và vì anh sắp thiền định trong vùng núi non trơ trọi ? Nguyên nhân thực sự để khóc là thấy rằng tất cả chúng sanh vốn có Phật tánh, vốn là những vị Phật tiềm ẩn thế mà vẫn không biết được điều đó để uổng oan chết trong thống khổ, lầm than ; và một nguyên nhân đặc biệt để khóc là nghĩ rằng một khi chúng sanh đã đạt được điều kiện làm người, thế nhưng họ vẫn chết mà không có Pháp. Nếu bà khóc vì điều đó, thì bà sẽ khóc không bao giờ ngừng được.”

Sư mẫu trả lời, “Tất cả điều đó đều rất đúng. Nhưng thật khó cảm thấy lòng bi như thế một cách không ngừng nghỉ. Đứa con ruột của tôi, nó đã thành tựu trí huệ và hiểu biết về sanh tử và niết bàn và nó sẽ hoàn thành mục tiêu của chính nó và của những người khác, đã cách lìa chúng ta vì cái chết. Bây giờ đứa con này, đầy tín tâm, tha thiết, trí huệ và đại bi, tuân theo bất cứ thứ gì nó được đòi hỏi, tuyệt đối không lỗi lầm, lại sẽ bỏ chúng ta trong khi đang còn sống. Đó là tại sao tôi không có sức để mang nỗi buồn đau này.”

Nói xong, bà còn khóc lóc nhiều hơn. Về phần thầy, thầy nghẹn thở vì nức nở. Chính lama cũng rơi nước mắt. Đạo sư và đệ tử buồn khổ như nhau trong sự quyến luyến lẫn nhau và những giọt nước mắt của hai thầy trò đã làm ngưng mọi lời nói.

Bình minh của ngày tiếp theo xuất hiện. Mang theo lương thực dư dả, Đạo sư cùng với khoảng mười ba đệ tử, đi với thầy nửa ngày đường. Trong suốt thời gian đó họ đi với nỗi buồn rầu của những trái tim thương mến nhau, nói những lời đằm thắm và bày tỏ những cử chỉ thương yêu.

Rồi đến một hẻm núi từ đó trông thấy Sống Đất của Đạo, mọi người ngồi xuống và tham dự một lễ cúng. Và lama cầm tay thầy trong tay ngài, nói rằng :

“Con sắp vào UŠ và Tsang. Ở đèo Silma vùng Tsang dễ gặp bọn cướp lắm. Thầy không muốn để con đi mà không có bạn đồng hành, nhưng đã đến lúc con phải đi một mình. Bây giờ thầy cầu nguyện với lama và yidam của thầy và bảo những dakini giữ gìn con của thầy khỏi bị hại trên đường đi. Về phần con, quan trọng là con phải cẩn thận trong cuộc hành trình. Từ đây hãy đến Lama Ngokpa. Hãy đối chiếu so sánh những giáo huấn của các con để xem có khác biệt nào không. Sau đó, hãy nhanh chóng lên đường. Chớ dừng lại quá bảy ngày ở quê nhà của con, và lập tức đi vào nơi hoang vắng. Sự việc này là cho lợi lạc của chính con và cho lợi lạc của tất cả chúng sanh.”

Khi từ giã, thầy cúng dường lama Bài Ca Lên Đường đến Tsang thế này :

“Bạch Đạo Sư Phật Vajradhara, bậc Bất Động.
Lần đầu tiên con đến Tsang như một người khất thực
Lần đầu tiên con đến quê hương như một hành giả đơn thuần.

Nhờ ân sủng của cha con lama bi mẫn,
Trên đỉnh Đèo Silma vùng Tsang
Mười hai dakini của núi sẽ đến gặp con.

Con nguyện cầu Đạo sư, bậc Thế Tôn.
Con đặt sự tự tin của con nơi Tam Bảo.
Những người hộ tống con là những dakini của ba bậc của Con Đường(6)

Con đi với Bồ đề tâm như một bạn đồng hành.
Bát Bộ Thiên Long sẽ đón tiếp con.
Con không sợ gì kẻ thù đối nghịch.

Dù thế con vẫn hướng đến Thầy,
Con xin Thầy gặp lại và hướng dẫn con trong đời này và đời tới.

Xoay mọi hiểm nguy xa khỏi con.
Hộ trì cho thân, ngữ, tâm con.

Xin hãy làm cho những thệ nguyện của con thành hiện thực.
Đưa con vào thần lực của đại bi,
Làm mạnh cho con trong hiểu biết Tantra và trong việc trao truyền nó.

Ban cho con một đời sống thọ không bệnh tật.
Thầy biết rõ số phận kẻ ăn mày này,
Xin ban phước có con có sức mạnh
Để sống trong hoang vắng núi non.”

Thầy cầu nguyện như thế và lama trả lời, “Con ơi, sự việc sẽ như thế. Hãy giữ trong trí nhớ của con những lời cuối cùng từ lòng người cha già của con. Chớ có quên chúng.”

Rồi đặt tay lên đầu thầy, ngài hát bài ca này :

“Kính lễ chư Lama Tôn Quý,
Nguyện cho đứa con phước đức của con, người cầu Pháp, chứng đạt Pháp Thân.

Qua âm thanh im lặng bất hoại của thần chú với vị cam lồ của nó,
Nguyện cho con chứng đạt Báo thân.

Nguyện cho cây Bồ đề tâm của con, với rễ cắm sâu trong tỉnh giác giữa đời,
Được bao phủ bằng muôn ngàn lá của Hóa thân.

Mong rằng những lời kim cương của lama của con
Sống trong lòng con, không bao giờ quên mất.

Nguyện sự ban phước của chư Yidam và dakini
Thâm nhập tận những gốc rễ của đời con.

Nguyện những thần thủ hộ của đạo pháp
Không ngừng trông coi cho con.

Nguyện lời cầu nguyện sâu xa và phước lành này
Được nhanh chóng trở thành hiện thực

Nguyện lòng bi mẫn của tất cả hành giả
Nâng đỡ con trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Trên Đèo Silma vùng Tsang
Mười hai thiên nữ(7) sẽ đến gặp gỡ con.

Ngày mai trên đường đi của con,
Chư daka và dakini sẽ thúc dục khuyến khích con.

Trong đất đai nhà cửa yêu dấu của quê hương con
Là guru của huyễn hóa vô thường.

Trong thím con, em con, và bà con
Con có một đạo sư làm tan biến huyễn mộng.

Trong hang động hoang vu
Con có một ngôi chợ rộng mở nơi con có thể đổi sanh tử lấy niết bàn.

Trong tu viện của tâm thân con
Con có một ngôi chùa nơi tất cả chư Phật hợp nhất.

Từ những đồ cúng dường bằng thực phẩm tươi
Con sẽ làm thành cam lồ khiến chư dakini hài lòng.

Bằng cách cầm cương những trung tâm năng lực
Con sẽ gặt hái quả quý báu.

Trong thôn làng nơi người ta ít thương yêu con
Con sẽ thực hành đức hạnh không xao lãng.

Trong ẩn cư nghiêm nhặt, không có người hay chó,
Con sẽ có ngọn đuốc để nhanh chóng thấy những dấu hiệu tu hành.

Trong tự do có được thực phẩm mà không phải khất thực
Là sự ban phước của chân tâm cho một tấm lòng bình an.

Trong cung điện pha lê của xứ sở không nhiễm ô
Con sẽ làm chứng cho chiến thắng của riêng mình.

Trong sự thực hành toàn tâm Pháp tối thượng
Con sẽ thành tựu mối ràng buộc tâm linh thanh tịnh.

Trong sự thực hiện những giáo huấn của thầy
Con sẽ có kho tàng của Giác Ngộ.

Trong những giáo lý thiêng liêng là trái tim sống của những dakini
Con sẽ tìm ra biên giới giữa sanh tử và niết bàn.

Đối với những đệ tử của Marpa Dịch Giả,
Sẽ có nhiều đại lộ vinh quang.

Qua tấm lòng kiên trì của Milarepa
Trụ cột của Phật pháp sẽ sừng sững lâu dài.
Nguyện cho con bảo vệ được trụ cột của Pháp
Được gia hộ bởi dòng cao quý.
Nguyện cho con được những đạo sư Kagyuš ban phước.
Nguyện cho con được những yidam tuyệt vời ban phước.
Nguyện cho con được ban phước bởi Havajra, Chakrasamvara và Guhyasamaja.
Nguyện cho con được ban phước bởi Pháp thiêng liêng.
Nguyện cho con được chư dakini ban phước.
Nguyện cho con được chư dakini của ba giai đoạn của Con Đường ban phước.
Nguyện cho con được chư thần bảo vệ ban phước.
Nguyện cho con được dakini Dusolma(8) ban phước.
Nguyện cho con được ban phước bởi những môn đồ tốt lành.
Nguyện cho con hoàn thành những lời dạy của lama của con.
Nguyện những đệ tử tương lai trong tất cả mọi đời được ban phước.
Nguyện tất cả những ban phước này được thường hằng không biến đổi.”

“Con hãy giữ những lời này trong trí nhớ của con và thực hành không quên mất.” Nói thế, lama rất vui vẻ. Sau đó sư mẫu cho thầy nhiều lương thực dồi dào, áo quần và những đôi giày mới. Rồi bà nói :

“Con ơi, như một sự từ giã của thế gian, những vật này mẹ cho con chỉ là những đồ vật chất. Bởi vì đây là lúc chấm dứt sự sum họp của chúng ta như mẹ và con trong đời này, mẹ mong sự ra đi của con được vui vẻ tốt đẹp. Mẹ cầu nguyện rằng nơi cõi Trên chúng ta sẽ tái ngộ với nhau trong cõi Urgyen của chư dakini. Như một sự từ giã tâm linh, mẹ mong con chớ quên những lời này phát từ tấm lòng của người mẹ của con.”

Sư mẫu cho thầy một kapala và một bình đầy rượu cúng, và hát bài ca này :

“Tôi lễ lạy dưới chân Marpa vô cùng tử tế.
Con tôi, có thần lực kiên trì và chịu đựng,
Người dịu dàng kiên định trong tình thương,
Hỡi đứa con phước đức nhất của ta,
Hãy uống trọn cam lồ của lama, một thứ rượu trí huệ toàn hảo,
Cho sự thỏa mãn sâu thẳm nhất của con,
Và rồi ra đi.
Nguyện chúng ta gặp lại trong Tịnh Độ của Phật
Như những người bạn tái hội cùng nhau.

Không quên chúng ta, cha con và mẹ con,
Hãy kêu cầu chúng ta không dứt trong khi cùng kiệt.
Hãy ra đi sau khi hưởng thọ những giáo pháp nuôi dưỡng tấm lòng.
Hãy ăn trọn phần con và dung hóa chúng.
Nguyện chúng ta gặp lại trong Tịnh Độ của Phật
Như những người bạn tái hội cùng nhau.

Không quên cha mẹ bi mẫn của con,
Nhớ lòng tốt của họ và hãy kiên trì trong thiền định.
Hãy mặc cái áo choàng hơi thở sâu kín của những dakini,
Hãy để nó sưởi ấm con trong cuộc hành trình.
Nguyện chúng ta gặp lại trong Tịnh Độ của Phật
Như những người bạn tái hội cùng nhau

Không quên những chúng sanh vô vọng,
Hãy để tâm con an lập trong con đường của tánh Giác viên minh.
Hãy phát sanh thôi thúc đưa đến sự giải phóng cho tất cả
Và hãy vác mang gánh nặng của Pháp
Với một sức mạnh vĩ đại khi con lên đường.
Nguyện chúng ta gặp lại trong Tịnh Độ của Phật
Như những người bạn tái hội cùng nhau

Con ơi, mẹ Dakmema phước đức,
Đang nói với con từ trái tim của mẹ.
Hãy giữ những lời của mẹ trong tim con và chớ quên chúng.
Mẹ của con sẽ nhớ đến con.
Mẹ và con, tâm và lòng hòa hợp,
Nguyện chúng ta gặp lại trong Tịnh Độ của Phật
Như những người bạn tái hội cùng nhau.

Mong lời cầu nguyện của mẹ được hoàn thành.
Mong con đền đáp lòng tốt của lama của con bằng sự thực hành Phật pháp.”

Nói thế, sư mẫu rơi nhiều nước mắt. Và mọi người có mặt đều khóc và buồn rầu. Về phần thầy, thầy lạy trước cha và mẹ, chạm đầu thầy vào chân các ngài. Thầy cầu xin sự ban phước của các ngài. Thầy đi thụt lùi mặt hướng về hai ngài cho đến khi không còn thấy mặt bổn sư nữa. Mọi người có mặt đều khóc trông theo thầy. Thầy miễn cưỡng bước. Cuối cùng, lama và mẹ xa khỏi tầm mắt, thầy bắt đầu lên đường và sau khi qua một thung lũng nhỏ, thầy quay nhìn lại. Lama và những người đi theo vẫn còn nguyên chỗ cũ, chỉ còn là một khối màu nâu ở xa xa. Thầy tự nhủ hay là trở lại. Rồi thầy nghĩ, “Ta đã có được trọn bộ giáo huấn. Ta sẽ không bao giờ làm cái gì dính dáng đến công việc phàm thế nữa. Ta sẽ không bao giờ cách lìa lama của ta, chừng nào ta có thể quán tưởng ngài trên đỉnh đầu của ta trong thiền định. Thậm chí ta có được lời hứa rằng chúng ta sẽ gặp lại trong Tịnh Độ của Phật. Một khi mình đã thấy bà mẹ sinh ra mình, trọn vẹn thân tâm, bấy giờ mình sẽ quay về với lama.”

Ý nghĩ này chấm dứt nỗi buồn của thầy và thầy cất bước lại. Thầy đến nhà Lama Ngokpa. Hai huynh đệ so sánh những giáo huấn của hai người. Trong sự giải thích Tantra, ông hơn thầy. Trong thực hành cụ thể, thầy không thua ông lắm, nhưng trong giáo huấn bí mật của dakini thì thầy vượt ông.

Sau khi làm lễ từ giã, thầy đi về làng. Thầy đến đó chỉ mất ba ngày.(9) Thầy hân hoan khi biết rằng thầy đã phát động được những thần lực khiến cho điều đó có thể.

Milarepa nói như thế. Đây là chương thứ năm, trong đó ngài thông thạo mọi giáo pháp tổng quát và như những giấc mơ tiên tri yêu cầu, ngài có được những giáo huấn khẩu truyền bí mật truyền từ một thầy đến một trò và ngài từ giã lama để về làng mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567