Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài giảng của TT Nguyên Tạng: Thanh Tịnh Tu Đa La Đa (bài trình pháp của đệ tử Quảng Tịnh Tâm)

25/06/202013:35(Xem: 16658)
Bài giảng của TT Nguyên Tạng: Thanh Tịnh Tu Đa La Đa (bài trình pháp của đệ tử Quảng Tịnh Tâm)


TT Thich Nguyen Tang__thanh tinh du da la_new



Nam Mô A DI ĐÀ PHẬT

 

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ,hôm nay SP giảng bài kệ thứ ba:

 

Nhất thiết pháp thường trú

Thanh Tịnh Tu Đa La

Năng trừ thân tâm bệnh

Thị cố ngã quy y


Có nghĩa là: Tất cả Pháp thường trú,Lời Phật dạy thanh tịnh, có công năng chữa lành, các bệnh khổ thân tâm,         Cho nên con hôm nay, xin quay về nương tựa.

 

Tu Đa La được phiên âm từ tiếng Phạn Sutta, nghĩa là Kinh, là lời Phật dạy được ghi chép lại. Kinh gói gọn trọng 5 nghĩa:

1- xuất sanh : pháp Phật nhiệm mầu xuất phát từ Kinh, có thể phá trừ tất cả phiền não.

2- hiển thị : tất cả pháp tu hiển lộ từ Kinh, có thể chữa lành bệnh  thân và tâm.

3- tuyền dũng : tất cả pháp tu như dòng suối chảy mạnh kéo trôi hết cấu uế phiền não trong tâm.

4- thằng mặc : tất cả pháp tu lưu xuất từ Kinh ví như sợi dây mực của thợ mộc, có thể làm chỉ chuẩn để cắt bỏ hết những khúc mắc, cành, nhánh của đau khổ, luân hồi.

5- kiết man: như vòng hoa nhiều màu sắc được dâng cho bậc cao đức đeo lên cổ, biểu trưng cho những lời hay ý đẹp của Phật được kết tập vào Kinh để lưu truyền lại cho hậu thế thừa tư lợi lạc.

 

Mỗi lần tụng Kinh, đệ tử Phật nên đảnh lễ tán dương Pháp Bảo như sau:

“Khể thủ năng bạt sanh tử hiểm

Phổ kiệt ưu não tham si hải

Phá bỉ trần lao tội nghiệp sơn

Ngã kim quy lễ diệu Pháp bảo”


Bài này do Cư Sĩ Hạnh Cơ  ở Canada dịch ra Việt Ngữ:

Pháp bảo vi diệu diệt phiền não

Phá trừ tội chướng như núi cao

Đưa chúng sinh thoát biển sinh tử

Chúng con đảnh lễ xin qui y

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai nhất thiết Tôn Pháp.

 

Sư Ông Nhất Hạnh cũng có soạn 1 câu tán dương Pháp Bảo như sau:
“Pháp bảo đẹp vô cùng

Lời vàng do chính Phật tuyên dương

Chư thiên trỗi nhạc tán hoa hương

Pháp mầu nhiệm tỏ tường

Ghi chép rõ ràng thành ba Tạng

Lưu truyền hậu thế mười phương

Chúng con nay thấy được con đường

Nguyện hết sức tuyên dương

Xin quy y thường trú Đạt ma gia”.

 

Quá hay, con sẽ cố gắng học thuộc lòng các câu này để hành trì mỗi ngày khi lễ Phật.

 

Chúng sanh đa bệnh, Phật pháp đa môn, nên Đạo Phật có nhiều Kinh để có thể giúp chữa lành bệnh cho chúng sanh.

 

Hôm nay con vui sướng được nghe Sư phụ kể lại những kỳ kiết tập Kinh Điển:

1/Kết tập kính điển lần thứ nhất: Sau khi Phật Nhập Diệt, Ngài Đại Ca Diếp kết tập Kinh điển lần thứ nhất có 499 vị La Hán,  ngài A Nan không được tham dự, vì chưa chứng quả A La Hán.

Ngài A Nan về am thất của mình để nỗ lực tham thiền cuối canh 2 , quá mõi mệt mà chưa đắc quả, nên Ngài bèn nằm xuống nghĩ, nhưng vừa nghiêng mình nằm xuống thì Ngài hoác nhiên đại ngộ, đắc quả ALaHán, và vào kịp dự kết tập Kinh, nên bài kệ tán thán Ngài như sau:

 

“Đa văn chúng trung xưng đệ nhất

Chứng đạo thân ly tứ oai nghi

Kiết tập Như Lai chánh pháp tạng

Vĩnh tác nhơn thiên độ thế sư”.


Nghĩa Việt:

“Nghe nhiều nhớ kĩ nhất tăng đoàn

Chứng đạo tự như bốn oai nghi

Kết tập Tạng Kinh không thiếu sót

Vĩnh viễn làm Thầy độ nhân thiên

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả”.

Ngài được mời chủ lễ kiết tập Tạng Kinh, còn Ngài Ưu Ba Ly chủ lẽ kiết tập Tạng Luật.

2/Kết tập kính điển lần thứ nhì vào khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt có700 vị La hán tham dự tại thành Tỳ Xá Ly.


3/Kết tập lần thứ ba 228 năm sau Phật nhập diệt, do Vua A Dục bảo trợ và do Trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Moggaputta - Tissa) chủ tọa và 1000 vị A La Hán tham dự.

4/Kết tập lần thứ tư 400 năm sau Phật nhập diệt, có 500 vị La Hán, được tổ chức tại thành Ca Thấp Di La, (kế Tân, thuộc miền Tây Bắc Ấn Độ.) , do Vua Ca Ni Sắc Ca bảo trợ . Vị chủ tọa cuộc kết tập này là: Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra) với sự trợ thủ của Hiếp Tôn Giả.

 

5/Kết tập lần thứ năm vào năm 1781 tức là sau 2015 năm Phật nhập diệt,  Kết tập tại thủ đô Mandalay, Miến Điện có 2400 Tăng Sĩ đức độ tham dự; sau kỳ kiết tập, chính phủ Miến cho khắc 729 phiến đá Kinh để lưu trữ Tam Tạng Kinh Điển.

 

6/Kết tập lần thứ nămđược tổ chức tại Miến Điện vào năm 1956 tức là sau 2500 năm Phật vào Niết Bàn.

 

Hiện nay chúng ta rất vui mừng vì ở Miến Điện vẫn còn gìn giữ truyền thống cho thi tụng thuộc lòng Tam Tạng kinh điển, và vẫn còn 11 vị Thánh Tăng được trao danh hiệu là Tipitaka masters, Tam Tạng Pháp Sư, hiện vẫn còn sống, những vì này phải thuộc lòng Kinh,Luật  và Luận.

Tu viên Quảng Đức có thắng duyên được đón tiếp một vị Thánh Tăng  trong số 11 vị , Ngài đến tham dự và tụng 1 thời kinh trong lễ bế mạc tuần lễ chiêm bái Phật Ngọc vào tháng 12 năm 2009.

  

Tổ Phước Hậu thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42, là một vị cao tăng của PGVN. Ngài ra đời tại Đồng Quan, tỉnh Thái Bình, từng trụ trì Chùa Báo Quốc Huế và là vị Tăng Cang cuối cùng của triều Nguyễn, ngài được sắc phong năm 1949. Ngài có lưu lại  cho hậu thế một bài thơ siêu tuyệt:

“Kinh điển lưu truyền tám vạn tư

Học hành không thiếu cũng không dư

Năm nay nghĩ lại chừng quên hết

Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.”

 

Quá tuyệt vời khi nghe giọng đọc và giọng ngâm của sư phụ.

Tổ nhắc mọi hành giả cuối đời, nếu có quên hết mọi thứ nhưng phải cố nhớ 1 chữ, đó là chữ Như, là Như Lai, là đức Bổn Sư của chúng ta là về sự, nhưng về lý, bản thân mỗi người phải nhớ đến Phật tánh của mình, luôn chánh niệm tỉnh giác để đi vãng sanh.

Thứ 2, ý nghĩa chữ Như này là “Như Thị” trong Kinh Pháp Hoa dạy: Như thị tánh, tướng, nhân, duyên, quả, báo… hành giả phải nhớ chữ Như thị, có nghĩa nhìn rõ thật tướng của vạn pháp như họ đang là, như nó đang là, chứ không nhìn theo lăng kính chủ quan định kiến của mình để tự mang phiền não khổ đau cho mình.

 

Kinh Phật dạy là Thanh Tịnh Tu Đa La, là mang lại niềm vui giải thoát cho chúng sanh nếu ai có duyên hội ngộ được.

 

Con cung kính thành tâm đảnh lễ Đức Như Lai khai sáng Tâm Chơn của chúng sanh.

 

Con kính tri ơn Sư Phụ đã dày công nói pháp Phật nhiệm mầu mỗi ngày,  bài pháp hôm nay quá tuyệt vời, để lại trong con những suy ngẫm về Tam Tạng Kinh Điển của Phật Pháp.

 

Kính bạch Sư Phụ, con có chị bạn DS ,thật chuyên trì chú. Hiện nay, mỗi  khuya 1 giờ khuya đến 4 giờ am,   Chị trì thuộc lòng 3 biến thần chú Lăng Nghiêm 60 phút, 15 biến chú Đại Bi,  thập chú..... Chị học ba năm mới thuộc lòng thần chú Lăng Nghiêm . Tâm chị rất kiên trì, thanh thản. Chị không cần hiểu nhiều nghĩa kinh nhưng chị cảm thấy bình yên khi tụng kinh.

Mỗi người có căn duyên của mình.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu  Ni Phật.

Con kính,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)

 


Kính mời vào đây để nghe giảng:

TT Thich Nguyen Tang__thanh tinh du da la_new

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/02/2016(Xem: 5850)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
26/01/2016(Xem: 12036)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
09/12/2015(Xem: 7065)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
26/09/2015(Xem: 6726)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26580)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 13917)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
15/06/2015(Xem: 19864)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/05/2015(Xem: 22533)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 18343)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
01/05/2015(Xem: 24788)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567