Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05-Người tu Phật phải là kẻ chán đời chăng?

06/02/201115:45(Xem: 2664)
05-Người tu Phật phải là kẻ chán đời chăng?

ĐẠOPHẬT VÀ TUỔI TRẺ
Hòa thượng ThíchThanh Từ
-05-

Người tu Phật phảilà kẻ chán đời chăng?

Có một số ngườimuốn lên án đạo Phật, không biết gì hơn, họ muợn danhtừ "chán đời" gán vào đạo Phật. Thế rồi họ oang oanglên rằng người tu là kẻ "chán đời", đạo Phật là đạo"chán đời"... Phản ứng lại, một số Phật tử nồng nhiệtbênh vực đạo, cực lực phản đối và đính chánh: "Ngườitu là yêu đời..." Chúng ta hãy gạt ngoài tình cảm, lấy lýtrí xét đoán thử người tu Phật phải là "chán đời" không?

Trước ta hãy định nghĩa "chánđời" là thế nào? - Theo nghĩa thông thường mọi người hiểu,"chán đời" là kẻ không bằng lòng xã hội thực tại.

Có hai hạng "chán đời". Một hạng,vì không thỏa mãn tham vọng, bất lực trước cảnh trái nghịchđâm ra chán ghét xã hội. Một hạng vì thấy sự mục nátcủa xã hội, đủ khả năng cải đổi, nên chán cái cũ, xâydựng cái mới. Tỷ dụ: Có một cái nhà mục nát hư ráchvà bẩn thỉu, nắng không có chỗ ẩn, mưa không chỗ đụt,lại hôi hám thối tha. Trong nhà ấy có ba người ở. Ngườithứ nhất thì luời biếng, cho rằng số kiếp đã định,phải sao chịu vậy, rồi cứ đùa giỡn say sưa với cảnhđen tối ấy. Người thứ nhì, mỗi khi bị gió lồng mưa lọtthì chắc lưỡi hít hà, đâm ra căm tức muốn xô cho ngã,đập cho tan cái nhà oan nghiệt này, mà trong tay không có mộtđồng xu, một cây tre, một miếng lá... Người thứ ba nhậnrõ sự khổ sở, sự bẩn thỉu, không cam chịu sống mãi trongcảnh tủi cực này, nhất định thay đổi cái nhà mục nátnhớp nhúa bằng cách dành dụm tiền, tìm vật liệu để xâydựng lại chắc chắn tốt đẹp, cho mình và anh em mình ởkhỏi khổ. Ba anh em trong nhà này, là đại biểu ba hạng ngườitrong xã hội. Người thứ nhất là hạng người chạy theodục lạc, không có một ý niệm gì về cuộc đời cả. Ngườithứ hai là hạng người chán đời, vì không thỏa mãn thamvọng và bất lực. Người thứ ba là hạng người tinh tấn,thấy sự mục nát của xã hội, chán cái cũ, xây dựng cáimới.

Hạng người chạy theo dục lạc:Họ nói là yêu đời, kỳ thật họ chỉ yêu dục lạcmà thôi. Vùi mình trong dục lạc, họ chỉ sống có ngày naymà không có ngày mai. Họ nhìn đời qua lớp sơn bên ngoài,nên say sưa mê mệt. Nếu ai nói cái gì khác hơn sự hưởngdục lạc, họ không ngần ngại gán cho danh từ "chán đờiyếm thế". Ai khuyên họ làm lành lánh dữ, họ chế nhạolà lên mặt "thầy đời". Thấy ai khổ sở khuôn mình trongđạo đức, họ cười là bọn "dại khờ"... Mục đích củahọ không ngoài thỏa mãn dục vọng nhất thời. Giá trị củahọ là hưởng được nhiều khoái lạc. Bởi thế, nên cáinhìn, cái nghĩ của họ không quá một tấc, một gang. Và suốtđời không làm gì khác hơn là lo cho thằng người của họ.Thế mà, gặp ai họ cũng vỗ ngực ta đây là yêu đời. Haitiếng "yêu đời" là cái bia danh dự nhất, để họ nêu lêntrước quần chúng.

Hạng người chán đời vì khôngthỏa mãn tham vọng và bất lực:Hạng người này nhìnđời bằng cặp mắt oán ghét, cuộc đời toàn xấu xa bỉổi, mọi người trong xã hội là kẻ thù của họ. Vì thế,họ muốn trốn một nơi nào, mà không có người bén mảngđến. Tại sao có quan niệm này? - Bởi vì:

- Hoặc họ là người đãđổ bạc vạn để mua chức quan (theo thời mua quan bán tước)mà không đắc cử. Tiền đã sạch, của đã không thì còngì mà không chán ghét xã hội.

- Hoặc họ là một quan chức bịthải hồi. Khi xưa ra đường có kẻ võng người hầu, mànay chỉ chiếc gậy quéo với cặp chân trần, thì tài nàohọ không chán đời khinh bạc.

- Hoặc họ là một thí sinh, baonhiêu sinh lực đều dồn vào sự học; đến năm thi, đặthết hy v?ng vào cái cấp bằng để có sở làm, được cơmno áo ấm, thế mà thi trượt! Trượt một lần, hai lần...mắt họ đã hoa, nhìn trước cả một bầu trời đen tối.

- Hoặc họ là người đang nặnglời biển hẹn non thề; bỗng không, ai đành ăn nguyền nuốthẹn, để họ sớm hờn duyên, chiều tủi phận. Lòng uấthận tràn trề, họ thiếu suy xét, lầm tưởng mọi ngườiđều xấu xa hèn mạt...

Tóm lại, vì không thỏa mãn dục vọng,công danh v.v... nên đâm ra chán ghét đời. Những người này,không phải sẵn lòng chán đời, bởi họ tham cầu những cáigì trên đời mà không được, nên sanh hờn ghét. Nếu nhữngđiều họ muốn mà được như ý, thì họ còn mê đời hơnai nữa.

Hạng người chán đời vì thấyxã hội mục nát, quyết thay cũ đổi mới:Hạng ngườinày lòng thương không bờ bến, nhìn thấy sự lầm than đentối của đồng bào, của nhân loại, quyết hy sinh đời mìnhđể khỏa bằng những hầm hố chông gai, đưa nhân loại đếnnơi vinh quang an lạc. Những vị điển hình của hạng ngườinày:

- Ðức Khổng Tử, vì cháncái xã hội mục nát của thời Xuân Thu nên quên nhọc nhằn,nay ở Lỗ mai về Vệ cho đến Tống, Trần... và chịu vấtvả ngồi dạy học trò, biên chép kinh sách để mong vãn hồiNhân đạo.

- Ðức Jésus Christ, vì chán sựcai trị khắc nghiệt của người La Mã, chế độ giai cấpbất công của đế quốc Do Thái, nên không nệ vào tử rasanh đi giảng đạo Bác ái.

- Ông Tôn Văn, vì chán cái xã hộihủ bại của nhà Thanh, nên mới vận động cách mạng khởinghĩa năm 1911 để thành lập Tam dân Chủ nghĩa.

- Ðức Thích-ca, vì chán giai cấpbất bình đẳng của Ấn Ðộ thời ấy, chán lòng sân hậnthù oán của loài người, chán cái si mê mù mịt của chúngsanh, nên vất bỏ cả ngai vàng ngôi báu, lìa vợ đẹp conyêu, ngót mười một năm tìm đạo trải qua nghìn vạn hiểmnguy. Sau khi đã thấy đạo, được phương pháp cứu khổ chúngsanh, Ngài dãi dầm sương nắng ngót bốn mươi chín năm, đemtinh thần bình đẳng thay cho giai cấp bất bình, lấy từ bithay cho sân hận oán thù, dùng trí tuệ thay cho si mê mù mịt.Thế là, Ngài đã cải thiện xã hội bất công đen tối củaloài người, trở thành xã hội lành mạnh tốt đẹp cho toànthể dân sinh.

Tóm lại, sống trong cảnh khổ màkhông tự biết, cứ say sưa theo dục lạc khói mây là kẻmù quáng. Ôm lòng tham trèo lên cây thang danh vọng, tài, sắc...rủi trượt chân đổ ngã, dập đầu toác trán, mới nhậnra nỗi khổ, nhưng chỉ biết kêu khóc, oán hờn là kẻ khiếpnhược. Nhận chân sự khổ rồi đem hết khả năng hoán cảixây dựng biến khổ trở thành lạc là bậc Thánh nhân, làngười giác ngộ. Như thế, ta ngại gì không dám thừa nhậnngười tu là "chán đời", đạo Phật là "đạo chán đời".Chán để xây dựng, để đem hạnh phúc cho chúng sanh; chớkhông phải chán để khóc than, thù hận như họ lầm hiểu.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/12/2016(Xem: 15725)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 17595)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35858)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 14099)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 7486)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 31534)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 16111)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
15/06/2015(Xem: 24099)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
16/05/2015(Xem: 24918)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này? Hãy nôn nó ra, vứt hết đi, không chừa lại một chút gì cả. Bạn sẽ cảm thấy dễ chịu khi vứt bỏ nó đi. Rồi cõi lòng bạn tràn ngập tình bi mẫn vị tha, thẩm thấu qua từng lỗ chân lông bạn. Hãy hiển lỗ tâm từ vô nhiễm trào dâng thương yêu. Hãy để những ai đến với bạn đều nhận được vầng quang hảo tâm không thể chối từ, cũng như khi rời xa, họ cảm thấy được cảm thông và can đảm hơn để đối mặt với cuộc đời đầy gian truân và nghiệt ngã này.
15/05/2015(Xem: 26554)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]