Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

02-Ðức Hỉ Xả

06/02/201115:45(Xem: 2412)
02-Ðức Hỉ Xả

ĐẠOPHẬT VÀ TUỔI TRẺ
Hòa thượng ThíchThanh Từ
-02-

Ðức Hỉ Xả

Sống trên đấu trườngnhân loại, trong cõi đời trần tục nhiễm ô, nếu ai cốôm chặt lòng thù hận chấp nê thì không sao tránh khỏi cảnhlầm than đau khổ. Muốn thoát khổ được vui, con người phảigỡ bỏ những mối dây oán hận, tẩy sạch những vết nhơô nhiễm trong cõi lòng mình cho được nhẹ nhàng trong sạch.Phương pháp gỡ bỏ và tẩy trừ ấy là đức hỉ xả.

Hỉ xả là vui vẻ tha thứ nhữnglỗi lầm mà người đã phạm đến ta, cũng như vui vẻ bỏtất cả danh vọng, tài sắc cho đến thân mạng của ta, nếuthấy cần và lợi ích cho chúng sanh. Có tha thứ, lòng ta mớithênh thang, tim ta mới hòa nhịp cùng tim của mọi người,có xả bỏ, tâm ta mới thanh thoát và an tịnh.

Cuộc đời đen tối và sầu khổnhất là cuộc đời của kẻ hay cau có, oán thù. Vì kẻ haycau có thì trên gương mặt luôn luôn hiện đầy những nétnhăn gay gắt, đôi mi chau lại lộ vẻ khó khăn. Kẻ còn ômnặng khối hận thù thì lửa hận thù thiêu đốt cả tim ganvà buồng phổi của họ. Còn gì khổ đau hơn khi tim gan bịthiêu đốt. Còn gì xấu xí bằng khi gương mặt nhăn nhó,héo sầu. Sống trên đời này, nếu ta gặp điều trái ý liềnmang lòng thù hận, thì chắc đời ta sẽ thấy toàn thù hậnvà oán hờn. Như Tý dùng lời thô bỉ mắng Thân, Thân cốtrả thù phải dùng lời bỉ ổi hơn, ban đầu còn trả thùnhau bằng miệng, kế trả thù bằng tay chân và sau cùng phảitrả thù nhau bằng dao, búa. Khi sơ khởi chỉ là mối thù riêngcủa cá nhân, rồi lan dần đến mối thù chung của gia đình,của thân tộc. Cứ thế, oán thù chập chồng thêm mãi biếtbao giờ dứt. Ðức Phật dạy: "Lấy oán trả oán, oán mãichất chồng; lấy ân trả oán, oán liền tiêu diệt."Ngườitrong lòng mãi ôm ấp hận thù thì lúc nào cũng tưởng chừngchung quanh đều là kẻ thù muốn hại mình, vì vậy họ sốngnhững ngày đầy lo sợ. Chỉ có ai biết lấy ân trả oánmới mong dứt sạch được hận thù. Như người Ðình Trưởngnước Lương trả thù người cào dưa mình bằng cách ra côngtưới dưa cho người, nhờ đó mà hận thù dứt sạch.

Còn gì vui sướng hơn, kẻ có tâmlượng bao dung sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho người.Khi nào trong lòng ta không còn một mảy may thắc mắc, khôngcòn một chút bợn hận thù, đó là lúc ta hoàn toàn an lạc.Người mà lòng được thanh thoát nhẹ nhàng thì gương mặtvui tươi, lời nói thanh nhã, cử chỉ thư thái, toàn thân hiệnra một phong độ khả ái khả kính. Con người ấy có mấykhi phải buồn khổ, vì thế nên họ trẻ mãi, sống dai. Sáchcó câu: "Thù ghét là sâu mọt đục khoét người ta, làmcho người ta chóng xấu, chóng già, chóng chết; yêu thươngvà tha thứ là suối nước cam lồ tưới vào lòng người,làm cho người tươi đẹp, trẻ dai và sống mãi."

Danh vọng, tài sắc... ở đời lànhững cạm bẫy chực hại người, nhưng vì nó có công nănghấp dẫn quyến rũ khiến người phải mê mẩn say sưa đểrồi chịu khổ, cũng như miếng mồi vì có mùi thơm hấp dẫn,con lươn phải lao đầu vào hom trúm. Phần đông người đờingỡ rằng đuổi bắt tài sắc, danh vọng... là hạnh phúc,chớ đâu ngờ càng đuổi bắt nó càng chuốc khổ về mình.Ðây, một chàng thanh niên ủ dột ngồi dưới lùm cổ thọ,phải chăng chàng đã trật chân trên nấc thang danh vọng? Kia,một thiếu nữ sầu bi đứng dựa mé sông sâu, phải chăngvì tình duyên ngang trái? Tóm lại, bởi đắm nhiễm sắc, tài,danh vọng... người đời phải luống chịu đau khổ.

Dứt bỏ những tham nhiễm là điềukhông phải dễ, mà dứt bỏ một cách vui vẻ lại càng khóhơn. Nếu ai mắt thấy sắc đẹp, tai nghe tiếng hay... mà lòngkhông ái nhiễm, ấy là bực siêu nhân. Ngài Phù Dung Thiềnsư nói: "... ngộ thanh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa,kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết..."Nghĩalà: "... nghe tiếng hay, nhìn sắc đẹp như hoa trồng trênđá, thấy tài lợi danh vọng như bụi rơi vào mắt..."Con người được như vậy mới hẳn là tự tại an vui. Chúngta nhìn qua tượng đức Di-lặc sẽ thấy năm đứa nhỏ móctai, chọc mắt... Ngài, mà trên gương mặt Ngài vẫn nở mộtnụ cười tự tại. Hình dáng ấy để tượng trưng cho ngườiđã hỉ xả ngũ trần toàn vẹn. Ðức Di-lặc không cườisao đặng, vì ngoại cảnh còn gì quyến rũ được Ngài, tâmNgài lúc nào cũng an nhiên thì quyết định trên gương mặthẳn luôn luôn hoan hỉ.

Tài, sắc, danh vọng... là vật bênngoài, xả bỏ không lấy gì làm khó, đến như thân mạnglà cái mà người phàm phu tuyệt đối mến yêu, muốn xảbỏ nó thì sự khó khăn lại gấp bội phần. Người đờivì trìu mến thân nên đã gây biết bao tội lỗi, ngược lại:"Bồ-tát vì chúng sanh bỏ thân mạng dễ dàng hơn người thamlẫn bỏ một vắt cơm."(Luận Ðại Trượng Phu)Người đã quên mình vì chúng sanh thì đối với sự khổvui còn mất của thân mình không đáng kể, như thế là họđã vượt khỏi cái khổ vì thân. Lão Tử nói: "Ngô hữuđại hoạn vị ngô hữu thân, ngô nhược vô thân hà hoạnchi hữu."Thật vậy, nếu không còn thấy có riêng mìnhthì còn hoạn gì làm cho mình khổ. Vui lòng bỏ thân mạngđể cứu độ chúng sanh, đó là đức hỉ xả cứu kính.

Tóm lại, hỉ xả những oán thùcho lòng được nhẹ lòng thanh thoát, đó là cái vui của phàmnhân. Hỉ xả những tài, sắc, danh vọng... cho tâm đượctự tại, đó là cái vui của bậc giải thoát. Hỉ xả thânmạng để cứu độ chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh đượcan lạc, đó là cái vui của bậc Bồ-tát. Người Phật tửquyết tâm dứt khổ tìm vui, phải tu đức hỉ xả theo thứtự của nó, hỉ xả một phần là chúng ta được vui mộtbậc. Ðến khi nào hỉ xả toàn vẹn rồi là ta được cáivui cứu kính. Như vậy, vui và khổ không phải do ai đem đếnhay ban cho, mà chính ta tự tạo lấy.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11629)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12098)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14966)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11798)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16532)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12513)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7776)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19961)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11616)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
23/03/2020(Xem: 10276)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567