Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5. Tạo những điều kiện thuận lợi vào giờ phút lâm chung

17/12/201016:21(Xem: 13071)
5. Tạo những điều kiện thuận lợi vào giờ phút lâm chung

CHỦ ĐỘNG CÁI CHẾT
ĐỂ TÁI SINH TRONG MỘT KIẾP SỐNG TỐT ĐẸP HƠN

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG TP. Hồ Chí Minh 2010

5
TẠO NHỮNG ĐIỀU KIỆNTHUẬN LỢI VÀO

GIỜ PHÚT LÂM CHUNG

« Một số người chếttrong bụng mẹ / một số khác khi mới sinh / một số khác khi mới biết bò / một sốkhác khi đã biết đi / Một vài người đã già, những người khác đã trưởng thành /Họ đều theo nhau ra đi / như hoa quả rơi xuống đất ».
Phật

Tiết 6

Cho chúng tôi vẫn cònnhớ lại những lời giáo huấn khi tu học
Trong lúc các y sĩ đã bótay và nghi lễ đã chấm dứt
Bạn hữu không còn hyvọng gì về sự sống của chúng tôi
Và chúng tôi cũng chẳngcòn gì để có thể vớt vát được nữa.

Chương vừa qua nêu lênhai chướng ngại cản trở một cái chết tốt lành: sự đau đớn không chịu đựng nổivà những ảo giác gây ra kinh hãi, thù hận, hay hoang mang tâm thần. Ta phải tìmcách loại bỏ những chướng ngại đó, đồng thời phát huy thái độ rộng lượng bằngcách ôn tập những điều đã tu học. Lúc không còn hy vọng gì nữa, bác sĩ đã bótay, các nghi lễ tôn giáo không còn ích lợi gì nữa, khi bè bạn và người thân đãhết hy vọng, là chính lúc phải làm tất cả những gì có thể làm được để giữ vữngtâm thức hướng về đạo đức.

Để thực hiện điều ấy, tacần phải nhớ lại những lời giáo huấn nêu lên cho ta những hành vi đạo hạnh. Đólà những gì tôi sẽ trình bày trong các tiết tiếp theo đây, và những lời huấnđạo đó phải đem ra thực thi trước khi ánh sáng trong suốt thuộc quá trình cáichết hiện ra, trong lúc ánh sáng đó còn đang hiển hiện và cả sau khi đã biếnmất, tức là lúc khởi sự giai đoạn trung gian[17] . Trong giai đoạn trung gianấy, ta có thể thực thi các nghi thức đặc biệt của du-già. Dù đã học được nhữnglời huấn đạo nào thì ta cũng phải nhớ lại thật minh bạch vào giây phút đó, tùynơi khả năng và trí thông minh của của mỗi người. Hãy sử dụng phép tu tậpthường lệ từ trước theo trình độ mà ta đã học hỏi được.

Năm sức mạnh sau đây sẽgiúp sức cho ta trong khi thực hành:

1- Sức mạnh của thóiquen. Ôn tập thường xuyên để tập cho thuần thục, mặc dù đang ở trình độ nàocũng thế, chỉ cần quyết tâm muốn thoát khỏi vòng sinh tử, phát lộ tình thươngvà lòng từ bi trong mục đích đạt được Giác ngộ vì sự an vui của kẻ khác, hoặcđạt được các cấp bậc trong Tối thượng Du-già Tan-tra.

2- Sức mạnh hướng vềtương lai. Hãy nghĩ như thế này: « Tôi sẽ tiếp tục tu tập trong kiếp sống này,trong giai đoạn chuyển tiếp, và cả những kiếp sống sau cho đến khi nào tôi đạtđược Phật tính ».

3- Sức mạnh của nhữnghạt giống tốt. Hãy gom góp sức mạnh từ những hành vi xứng đáng (nghiệp tốt) đểhướng dẫn sự tu tập của ta.

4- Sức mạnh của sự gạtbỏ. Hãy tự nhủ rằng những hiện tượng như sinh, diệt và giai đoạn trung gian chicó thể hiện hữu do nơi ta mà thôi: chúng hoàn toàn không có tính cách hiện hữutự tại. Phải hiểu rằng yêu thương cái tôi là cách tạo ra kẻ thù, vậy hãy suynghĩ như thế này: « Sự kiện tôi phải gánh chịu khổ đau trong chu kỳ sinh diệtlà do yêu thương cái tôi của chính mình. Nguồn gốc của cái ngã dính liền với sựtin tưởng rằng muôn loài và muôn vật đều hiện hữu một cách tự tại. Đìều nàyhoàn toàn sai ».

5- Sức mạnh của ướcvọng. Hãy thường xuyên lặp đi lặp lại lời nguyện như sau: « Dù sau khi đã chết,tôi vẫn xin trong kiếp sau sẽ có một thân xác khả dĩ giúp tôi trong việc tu tậpĐạo Pháp. Tôi xin sẽ gặp được một vị thầy tốt hướng dẫn để giúp tôi không bỏ dởsự tu tập ».

Năm sức mạnh vừa kể rấtcần thiết giúp ta nhớ lại những gì đã tu tập, nhất là trong lúc phải đương đầuvới vô số khó khăn.

Khi chắc chắn có mộtngười sắp chết, thân nhân xung quanh không nên khóc lóc, nắm tay, ôm họ hay làta thán. Chuyện đó không giúp ích được gì. Trái lại, cách cư xử như thế khíchđộng sự lưu luyến thế giới này trong tâm thức của người chết, và như thế sẽ làmtiêu tan hy vọng giúp họ chọn lấy một thái độ phù hợp với đạo đức. Người xungquanh nên nhắc nhở kẻ hấp hối những lời giáo huấn và cách thực thi đạo đức bằngcách nói thật nhỏ nhẹ bên tai họ cho đến khi nào hơi thở chấm dứt.

Ví dụ như nếu người chếttin vào một vị Trời sáng tạo, cứ nghĩ đến vị Trời đó thì sẽ được nhẹ nhỏm hơn.Họ sẽ cảm thấy bớt bám víu hơn vào môi trường chung quanh, ít sợ và ít hối tiếchơn. Nếu người sắp chết tin vào sự tái sinh, hãy nghĩ đến kiếp sau, hướng vàoquyết tâm phục vụ kẻ khác, cũng sẽ đem đến những kết quả như trên đây. Điều hệtrọng là giữ tâm thức thật an bình, đừng làm xáo trộn quá trình của cái chếtđang diễn ra.

Đối với một Phật tử, họcó thể tin tưởng nơi Đức Phật và phát nguyện xả thân để thực hiện những hành viđạo hạnh trong kiếp sau. Nếu là một người không tin tưởng gì cả cũng có thể chorằng cái chết là một thành phần bất khả phân của sự sống: khi nó phát hiện cũngchẳng có gì phải bận tâm lo nghĩ.

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜIKHUYÊN

1. Phải hiểu rằng vàomột lúc nào đó, tất cả mọi hy vọng sống thêm trong kiếp này sẽ tiêu tan. Vàogiây phút ấy, bác sĩ, tu sĩ, bạn hữu và người thân đều bất lực không giúp tabảo tồn sự sống này thêm nữa. Ấy là lúc chính ta phải tự tìm cách giúp đỡ lấyta.
2. Trong khi hấp hối,cần phải nhớ lại những lời giáo huấn tùy theo trình độ của ta và chú tâm vàođó.

3. Hãy ôn tập cho quen,quyết tâm giữ vững đường hướng tinh thần đúng như thế trong bất cứ trường hợpnào, dù cho gặp khó khăn cách mấy đi nữa. Hãy thực thi thật nhiều hành vi xứngđáng để gom góp sức mạnh hổ trợ sự sống và cả cái chết của ta. Hãy ý thức rằngkhổ đau sinh ra từ sự yêu mến cái tôi của mình quá đáng, vậy hãy tập yêu thươngkẻ khác. Thường xuyên ước vọng sẽ được tiếp tục tu tập trong những kiếp sau.

4. Khi có một người sắpchết, cẩn thận đừng làm cho họ bối rối bằng những cử chỉ bám víu hay căngthẳng, điều đó chỉ gây ra cho người chết những phản ứng tiêu cực. Đừng ta thánsự ra đi của họ. Tránh đừng ôm họ vào lòng và khóc trước mặt họ. Hãy giúp họ rađi trong sự tự hào bằng cách gợi lên cho họ một viễn tượng tốt đẹp sẽ được tiếptục tu học sau này.

5. Xin những người xungquanh sau này hãy làm như thế cho ta lúc ta sắp chết. Tìm cách thu xếp thế nàođể có một người thân thỉnh thoảng nhắc nhở bên tai một thái độ tinh thần nào đómà ta muốn thực hiện khi chết.

Tiết 7

Xin cho chúng tôi vữngtin với sự hân hoan và tuyệt vời
Trong khi miếng ăn vàcủa cải tom góp bằng sự ích kỷ phải bỏ lại
Những người thân vô cùngyêu mến và thân thiết phải vĩnh viễn xa lìa
Để đơn độc bước vào mộthoàn cảnh thật hiểm nguy.

Thói thường, khi ngườita thông báo cái chết của ta đã gần kề, điều đó sẽ gây cho ta, cả bạn hữu vàgia đình ta, một sự đau buồn lớn. Chính từ nơi trọng tâm của những đau đớn đósẽ phát khởi quá trình của giai đoạn hấp hối: sự biến mất dần dần của tâm thức.Như tôi đã giải thích trước đây, nếu ta biết nghiền ngẫm để rút tỉa tinh túytrong cuộc sống, biết chăm lo tu tập và biết suy tư về vô thường, khi đến phútlâm chung ta sẽ dễ dàng nhớ lại những gì cần thiết để tránh những tác hại do ưuphiền và đau đớn gây ra. Những ảo giác liên quan đến cái chết, thay vì làm taphân tâm, sẽ nhắc nhở ta thực thi những gì đã tu tập và khuyến khích ta trongviệc tham thiền.

Biết giữ lấy trong tâmnhững lời khuyên nhủ đó, may ra ta sẽ chết trong niềm vui sướng và tin tưởng,giống như một đứa trẻ sung sướng được quay về ngôi nhà của cha mẹ mình. Lúcnhập vào giai đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống, những người có trình độ caocó thể nhìn thấy trước sự tái sinh của chính họ. Những người như thế sẽ chếttrong tin tưởng và không lo phiền. Người tu tập có trình độ trung bình sẽ khôngsợ hãi, người có trình độ thấp thì không hối tiếc. Nếu tâm ta đã chuẩn bị đểtái sinh trong một kiếp sống đầy ý nghĩa, đủ khả năng tiếp tục đeo đuổi sự tuhọc, thì lúc cái chết xảy ra ta sẽ không hối tiếc, không hoảng hốt, không loâu. Tâm thức ta sẽ tan dần trong niềm tin tưởng.

Tôi đã thấy một số nhàsư thông thái chết trong trạng thái đó. Khi biết mình sắp chết, họ cho gọingười thân đến để từ biệt. Vào đúng ngày chết, họ khoác lên người chiếc áo càsa màu nghệ, không lộ vẽ lo âu gì cả, họ tham thiền và chết. Tại nơi đây, nơitỉnh Dharamsala[18] này, một nhà sư sai một đệ tử của ông mang đến choông chiếc áo cà sa. Ông khoác lên người và chết ngay sau đó. Nhiều nhà sư kháccũng tại đây, trên đất Ấn độ này, sau khi chết, tâm linh lưu lại nhiều ngàytrong trạng thái ánh sáng trong suốt. Một người lưu lại trong trạng thái đó đếnmười bảy ngày, nhiều người khác trong chín hay mười ngày. Mặc dù trong một xứnóng bức, nhưng sau khi trút hơi thở cuối cùng, thân xác của họ rất tinh khiết,không một mùi hôi hám trong suốt thời gian như vừa kể trên.

Những người như thế cókhả năng lựu lại một cách toàn vẹn trong thể dạng ánh sáng trong suốt, tức ánhsáng trong suốt của cái chết, và ra đi trong niềm vui sướng, với niềm tin tưởngmãnh liệt.

Người thầy lớn tuổi nhấtcủa tôi là Ling Ringpoché, kể cho tôi nghe về một vị Lạt-ma, câu chuyện vừabuồn lại vừa khôi hài. Khi sắp chết vị Lạt-ma này khoác lên người chiếc áo màunghệ và tuyên bố với những bạn đồng tu rằng mình sắp ra đi. Sau đó ông ngồitréo chân theo tư thế thiền định rồi ra đi. Một trong những người đệ tử mới củaông từ một vùng xa vừa đến không hiểu rằng người tu hành cũng có thể chết trongtư thế tham thiền. Anh này khi hay tin thầy minh đã chết, bước vào phòng lạithấy thầy mình đang ngồi, anh hốt hoảng tưởng là ma nhập vào thân xác của thầyvội xô ông ngã xuống đất.

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜIKHUYÊN

1- Để tránh những bấnloạn do cái chết gây ra, hãy dựa vào tôn giáo sẳn có của mỗi người để phát lộtừ tâm đến muôn loài, chú tâm vào sự cần thiết rút tỉa những tinh anh của kiếpsống hiện tại, một kiếp sống dựa trên niềm hân hoan và may mắn đã biết tu tập,nhất là hãy suy tư càng nhiều càng tốt về vô thường.

2- Cách tập luyện cơ bảnđó sẽ giúp ta nhớ lại những điều phải thực thi trong khi chết. Những hình ảnhkhủng khiếp và mọi thứ ảo giác tuy có thể phát sinh nhưng không thể làm lunglay sự trầm tĩnh của ta, không làm xao lãng sự suy tư trong vui sướng và tự tincủa ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 5315)
Chúng ta đã biết đến B. Russell như một trong những nhà sáng lập triết học phân tích. Tuy nhiên, ông không chỉ là một nhà triết học có nhiều tác phẩm, mà còn là người mang triết học đến với đại chúng và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực khác, như lôgíc học, tôn giáo và thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quan điểm của ông về tôn giáo
22/09/2010(Xem: 6971)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
22/09/2010(Xem: 6242)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
10/09/2010(Xem: 58463)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
06/09/2010(Xem: 6835)
“Trước sự Nô Lệ của Con Người” là nhan đề chúng tôi dùng để gọi tập sách này, gồm những bài viết và những bài thảo luận quan trọng mà chúng tôi đã trình bày trong những hội nghị quốc tế và quốc nội. Những vấn đề đặt ra trong tập sách đều nhắm vào một trọng tâm độc nhất: tìm lại con đường của văn hoá Việt Nam trước sự nô lệ của con người để khai quan một chân trời cho ý thức tự do của nhân tính
03/09/2010(Xem: 5198)
Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
30/08/2010(Xem: 3863)
Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản. Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
30/08/2010(Xem: 6434)
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể.
30/08/2010(Xem: 8163)
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
30/08/2010(Xem: 5824)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]