Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Vượt qua những chướng ngại cản trở

17/12/201016:20(Xem: 12732)
4. Vượt qua những chướng ngại cản trở

CHỦ ĐỘNG CÁI CHẾT
ĐỂ TÁI SINH TRONG MỘT KIẾP SỐNG TỐT ĐẸP HƠN

Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG TP. Hồ Chí Minh 2010

4
VƯỢT QUA NHỮNG CHƯỚNGNGẠI CẢN TRỞ

MỘT CÁI CHẾT TỐT LÀNH

«Dù ta có bám víu kéomấy, ta cũng không lưu lại được. Có ích lợi gì khi khiếp sợ và kinh hãi trướcmột chuyện không tránh khỏi». Phật

Tiết 4

Cho chúng tôi được giảithoát khỏi sự đau đớn vô biên gây ra từ đủ loại nguyên nhân đưa đến cái chết,
Trong thế giới của nhậnđịnh sai lầm giữa chủ thể và đối tượng này,
Xác thân ảo ảnh, cấu tạobằng tứ đại ô nhiễm
Kể cả tâm linh, đang bắtđầu tan rã.

Hãy khởi sự kiến tạonhững thể dạng tâm linh đạo đức càng sớm càng hay trong kiếp sống hiện tại. Nhưthế ta mới có thể hướng tâm thức vào con đường đạo đức, kể cả trong giờ phútlâm chung. Trong quá trình của cái chết, ta có thể bị bệnh tật ngặt nghèo hànhhạ. Trừ phi ta đi hết đoạn đường trong cuộc sống của ta thì thôi, nếu không tacũng có thể chết đột ngột vì tai nạn hay bị chấn thương ở não, chẳng qua vì ânđức đã cạn, vốn liếng do những nghiệp tốt lành giúp ta sống còn, ta cũng đãtiêu dùng hết. Trong hoàn cảnh ấy, tu tập tâm linh lâu dài không thể thực hiệnđược nữa (nhưng cũng có thể không nhất thiết như vậy). Khổ đau quá sức có thểgây ra kinh hoàng làm mất hết khả năng suy tư của ta, ngoại trừ những người đãđạt được sức mạnh thiền định trong các cấp bậc cao. Chính vì lý do như thế vàđang trong lúc này đây, ước mong thoát khỏi đớn đau và sợ hãi bủa vây để đượcchết một cách thoải mái, quả là điều quan trọng; đó cũng là dịp làm tăng thêmvốn liếng đạo đức mà ta đã từng vun xới; và rồi nhờ đó biết đâu ta cũng sẽ ýthức được ý nghĩa của cái chết của chính ta.

Vì chính cái chết đi đôivới sự phân ly giữa thân xác và tâm thức, do đó cũng nên ý thức bản chất củacái « tôi » là gì, nó luôn luôn liên hệ với những cấu hợp vật chất và tinhthần. Loại thân xác mà ta hiện có được xác định đơn giản như một thực thể, phátsinh từ bốn thành phần là đất, nước, lửa và khí, những cấu hợp đó gánh chịunhững đớn đau gây ra do nhiều nguyên nhân có thể rất nhỏ nhoi. Thân xác ấy giốngnhư một ảo giác. Nó hiện hữu trong một lúc nào đó, một lúc sau thì biến mất.Chúng ta có cảm giác đang hiện hữu một cách đương nhiên, nhưng thật ra chúng tahoàn toàn trống không về sự hiện hữu nội tại. Tuy thân xác có vẻ sạch sẽ khiđược tắm rửa, được hạnh phúc, tự tại, và kỷ cương, nhưng có thể nói đó là cảmột thế giới dung túng những khái niệm sai lầm, những ảo giác sai lạc về bảnthể đích thực của tâm thức và cả những đối tượng của tâm thức.

Thế giới của những kháiniệm sai lầm trên đây sẽ được bàn đến trong tiết bốn liên quan đến chu kỳ luânhồi của sự sống. Những khái niệm ấy gồm chung trong các hành động (nghiệp) phátsinh từ những xúc cảm bấn loạn. Những xúc cảm bấn loạn phát sinh từ vô minh[16], và nhất là từ thứ quan niệm cho rằng có sự hiện hữu nội tại, quan niệm đóđánh lừa ta về bản chất đích thực của « cái tôi » và của mọi vật thể, tức xemchúng hiện hữu tự nơi chúng, một cách tự tại. Vô minh chính là nguyên nhân cơbản tạo ra chuỗi dài khổ đau trong những chu kỳ liên tiếp của sinh diệt.

Khái niệm sai lầm về sựhiện hữu nội tại sẽ tạo ra nghiệp – nghiệp ở đây có nghĩa là hành động và cảnhững xu hướng do hành động tạo ra – nghiệp sẽ làm động cơ xoay vần cho chu kỳsinh diệt. Những hiện tượng dính liền với quá trình của vô minh có vẻ như làmột hiện hữu tự tại, nhưng thật ra không phải thế. Chúng tạo ra một thế giớisai lầm. Thế giới của chu kỳ hiện hữu phát sinh từ quan niệm sai lầm giữa chủthể và đối tượng – tức chủ thể nhận thức và đối tượng của hành vi nhận thức,những hiện tượng thuộc bên ngoài và bên trong – sai lầm vì xem chúng hiện hữumột cách nội tại và đương nhiên, tự nơi chúng và do nơi chúng.

Tiết bốn giúp ta thựchiện ước vọng tránh khỏi những lo âu quá đáng nhờ vào sự tu tập hữu hiệu chechở, khi tâm thức bắt đầu tách rời khỏi phần thân xác ảo giác cấu hợp bằng tứđại. Dâm đãng và hận thù là những chướng ngại cản trở các hành vi đạo đức.

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜIKHUYÊN

1- Hãy tu tập ngay từgiờ phút này, đến khi lâm chung, cách cư xử đạo đức của ta đã thuần thục sẽhướng dẫn những hành vi của ta một cách tích cực hơn.

2- Hãy nhìn thân xác tanhư một thế giới hàm chứa những giá trị giả tạo. Khi được tắm rửa, ta cảm thấythân xác có vẻ như sạch sẽ, cũng thế ta có cảm giác những nguồn phúc hạnh sẽkéo dài vô tận dưới sự kiểm soát của ta, nhưng thực ra không đúng như thế. Thânxác tứ đại (đất, nước, lửa và khí) phải gánh chịu mọi đớn đau và nó biến đổi từphút giây này sang phút giây khác, tùy thuộc vào những xung năng thúc đẩy nó.

3- Sinh vật và các vậtthể xung quanh có vẻ như hiện hữu tự nơi chúng. Vô minh chấp nhận ảo giác đó,và làm phát sinh những xúc cảm đớn đau vì thèm khát dâm dục trầm trọng, vì hậnthù và bấn loạn. Tiếp theo, những xúc cảm đớn đau sẽ gây ô nhiễm trong từng cửchỉ trên thân xác, qua từng lời nói, trong cả tâm thức, để rồi kích động sựxoay vần của chu kỳ sinh diệt. Hãy luôn luôn tự nhắc nhở rằng ta đang sốngtrong thế giới của những khái niệm sai lầm.

Tiết 5

Chúng tôi xin được tránhkhỏi những sinh khởi sai lạc do lỗi lầm
Trong giờ phút cuối cùngđầy thất vọng, và từ nơi xác thân được trau chuốt cẩn thận này
Những kẻ thù khiếp đảmvà những hung thần của cái chết hiện ra.
Đưa chúng tôi đến chỗ tựhủy diệt bằng khí giới của ba thứ nọc độc là xa hoa, hận thù và lầm lẫn.

Phút lâm chung thật làthen chốt vì chính nó đánh dấu một kiếp sống đang chấm dứt để chuyển sang mộtkiếp sống khác. Nếu như trong giây phút then chốt ấy, thân xác vẫn còn thuộc vềta, thì ta còn có thể trông cậy vào nó, nhưng nó đã bỏ ta một cách đột ngột.Cái thân xác mà ta vô cùng nâng niu, mặc cho nó quần áo tuyệt đẹp, tiêu xàikhông tiếc tiền cho nó, đùm bọc nó, cho nó đủ thứ thuốc men và kích thích nóphạm vào những hành vi tội lỗi, nó đang bỏ rơi ta.

Chỉ vỏn nói đến cái chếtđã làm ta khó chịu. Khi quá trình cái chết của chính ta trở nên quá lộ liễu vànhững khía cạnh khiếp đãm của vô thường mà bài thơ của Ban-thiền Lạt-ma gọi là« hung thần của sự chết » đang phát hiện, thì trong lúc đó một số người phảnứng thật mãnh liệt bằng cách bám víu vào những gì mình có, chẳng hạn như cha mẹmình, bạn hữu của mình, một số khác lại tỏ ra oán hận bạn hữu và cả sự đau đớnđang hành hạ mình. Nếu như những ám ảnh dâm dục và hận thù không phải là nguyênnhân tạo ra sự bám víu của ta, thì ta cũng sẽ bám víu quá đáng vào sự hiện hữutự tại của ta và những ảo giác khác, nói chung là những dấu hiệu của vô minh.Ba thứ nọc độc – thèm khát tà dâm, hận thù kẻ khác, vô minh – sẽ tạo ra vô sốchướng ngại cho việc tu học. Chính đó là những khí giới dùng để tự thanh toánta vào giờ phút lâm chung. Để tránh khỏi những tư tưởng độc hại ấy bùng dậytrong suốt quá trình của cái chết, ta hãy cầu xin những thèm khát dâm dục mãnhliệt và sự gia tăng hận thù đừng xâm chiếm lấy ta và ảo giác đừng hiện ra đểquấy rầy ta.

Riêng đối với cái chết,cần nhất không nên dùng những loại thuốc làm ta mất khả năng suy tư. Người tuhọc phải tránh những chất ma túy làm cho đần độn, phải giữ cho tâm thức minhmẫn được chừng nào tốt chừng đó. Nếu xin chích thuốc để « cái chết được nhẹnhỏm », tức là đánh mất dịp may giúp ta suy tư về vô thường và tìm thấy an bìnhtrong chính sự vô thường đó, và không cho ta phát lộ lòng từ bi và tình thươngyêu kẻ khác. Chất ma túy nào chống được đau đớn nhưng không làm tê liệt tâmthức may ra có thể hữu ích, nếu chất ma túy đó không làm gián đoạn sự sinh hoạtbình thường của tâm thức, tránh được những đau đớn làm cho tâm thức bị xaolãng.

TÓM LƯỢC NHỮNG LỜIKHUYÊN

1- Nên hiểu rằngthân xác mà ta đang chăm sóc với bất cứ giá nào, sẽ bỏ ta một ngày nào đó.
2- Tránh đừng nuốitiếc địa vị mà ta sẽ phải từ bỏ.
3- Đừng nghi ngờsự ra đi của ta.
4- Hãy tránh xa sựthèm khát dâm dục, hận thù và vô minh, như thế ta mới có thể thực thi nhữnghành vi đạo đức trong khi chết.
5- Hãy ý thức rằngnếu uống một viên thuốc hay chích một mũi thuốc để tìm một cái chết gọi là bìnhan, ta sẽ đánh mất một dịp may quý báu để thực thi những điều đạo hạnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 5311)
Chúng ta đã biết đến B. Russell như một trong những nhà sáng lập triết học phân tích. Tuy nhiên, ông không chỉ là một nhà triết học có nhiều tác phẩm, mà còn là người mang triết học đến với đại chúng và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực khác, như lôgíc học, tôn giáo và thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quan điểm của ông về tôn giáo
22/09/2010(Xem: 6969)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
22/09/2010(Xem: 6241)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
10/09/2010(Xem: 58459)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
06/09/2010(Xem: 6833)
“Trước sự Nô Lệ của Con Người” là nhan đề chúng tôi dùng để gọi tập sách này, gồm những bài viết và những bài thảo luận quan trọng mà chúng tôi đã trình bày trong những hội nghị quốc tế và quốc nội. Những vấn đề đặt ra trong tập sách đều nhắm vào một trọng tâm độc nhất: tìm lại con đường của văn hoá Việt Nam trước sự nô lệ của con người để khai quan một chân trời cho ý thức tự do của nhân tính
03/09/2010(Xem: 5197)
Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
30/08/2010(Xem: 3862)
Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản. Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
30/08/2010(Xem: 6433)
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể.
30/08/2010(Xem: 8160)
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
30/08/2010(Xem: 5822)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]