Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma viết về Đạo Phật & Khoa Học

09/06/201407:25(Xem: 5632)
Đức Đạt Lai Lạt Ma viết về Đạo Phật & Khoa Học

dalailama-1a
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
VIẾT VỀ ĐẠO PHẬT VÀ KHOA HỌC.
Vi Tâm


Đức Đạt Lai Lạt Ma (ĐLLM) viết cả chục cuốn sách, cuốn nào cũng được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Trong những cuốn đã đọc, tôi rất thích cuốn « Cả vũ trụ trong một hạt nhân » (The Universe in a single atom). Tôi thích vì quyển sách đó chứng tỏ tính ham học, sự hiểu biết vô cùng thông thái và lòng cởi mở vị tha của Ngài.

Phần chính cuốn sách bàn về những liên đới giữa các lý thuyết của khoa học cận đại và những nhận xét suy luận về vũ trụ và con người đã viết trong kinh điển Phật giáo Tây Tạng từ ngàn năm về trước. Nhưng ở đây tôi chỉ muốn kể về vài chuyện nhỏ rất lý thú mà Đức ĐLLM đã sống khi Ngài còn nhỏ tuổi. Chuyện Ngài lúc nhỏ tuổi đã máy mó tháo ra lắp lại mấy cái đồng hồ, rồi dùng kính thiên văn ngắm nghía sao trên trời và mặt trăng, rồi học sửa xe ô tô, rồi học lái xe ô tô như thế nào. Những tò mò về kỹ thuật đó đã nuôi trong đầu Ngài lòng ham muốn học hỏi về kỹ thuật rồi về khoa học để sau này thành một Lạt Ma hiểu biết rất nhiều về khoa học hiện đại.

1. Học hành về lịch sử , giáo điều, và triết lý đạo Phật từ hồi 5-6 tuổi. Đức ĐLLM sanh ra trong một gia đình nông dân, chuyên trồng trọt và nuôi gia súc. Năm lên 6 tuổi, Ngài được nhận ra là Đức ĐLLM thứ mười bốn, và được đưa khỏi gia đình vào sống và tu hành trong lâu đài của ĐLLM thứ mười ba trong tỉnh Lhassa. Tại đây Ngài được nhiều vị Thầy chăm lo dạy dỗ. Mỗi ngày phải ngồi thiền trong hai giờ, và ngồi bốn lần một ngày. Ngài học chữ nghĩa, nghi lễ, lịch sử, và triết lý đạo Phật Tây Tạng. Đó là một chương trình đạo tạo chung cho các vị Lạt Ma. Chương trình này không có một tí gì về vật lý, hóa học, hay toán học.

2. Thích dùng và tháo lắp các máy móc. Lúc đó Đức ĐLLM sống trong lâu đài đồ sộ Potala, có đến cả ngàn gian buồng. Vào những giờ nghỉ học Ngài hay lang thang đi phám phá các gian buồng chung quanh, trong đó có chứa nhiều đồ đạc và di vật của các ĐLLM thời trước, nhất là của Đức ĐLLM thứ 13. Trong các cuộc thăm dò đó, nhiều đồ vật đã kích thích tính tò mò của Ngài. Trên hết phải kể là :

1. Một cái đồng hồ cơ khí, lên giây bằng tay, trong đó có nhiều bánh xe xoay vào nhau,

2. Một cái kính thiên văn đồ sộ đặt trên môt cái cột có ba chân,

3. Hai cái máy chiếu phim phải quay bằng tay để lên điện,

4. Ba chiếc xe ô tô, hai xe Baby-Austin kiểu năm 1927, và một chiếc Dodge kiểu năm 1931. Ba chiếc ô tô này được người Anh tặng cho ĐLLM thứ 13. Trong những năm ấy, đó là 3 chiếc xe độc nhất bên Tây Tạng. Khi đó Tây Tạng chưa có đường xá cho xe ô tô, nên họ phải tháo xe thành từng mảnh bên Ấn Độ, cho lên lưng lừa thồ lên núi mang vào lâu đài của Đức ĐLLM rồi lắp các mảnh đó lại thành xe.

Cái kính thiên văn thì quá dễ hiểu. Đức ĐLLM đã đem nó ra ngay sân thượng để ngắm người đi lại dưới thành phố Lhassa. Ngài rất thèm thuồng thấy những đứa trẻ cùng tuổi được thảnh thơi vui đùa dưới phố, trong khi mình cả ngày phải ngồi học. Sau này Ngài rất thành thạo sử dụng máy để ngắm các ngôi sao và mặt trăng. Xứ Tây Tạng ở cao trên núi, đêm về trăng sao hiển rõ mồn một, Ngài say mê ngắm nghía và luôn luôn hỏi han các thầy học cũng là tùy tùng của Ngài về tên các vì sao và các chuỗi sao. Người Tây Tạng sống trên núi cao, nên từ xưa đã rất giỏi về thiên văn. Phần lớn các ngôi sao thấy được trên trời đều có tên bằng tiếng Tây Tạng. Ngắm mặt trăng thì dĩ nhiên thấy nhiều hình thù trên đó. Bên Tây Tạng không có chuyện Hằng Nga và chú cuội, nhưng có chuyện con thỏ trên mặt trăng. Đức ĐLLM quen sống trên đồi núi, bèn nghĩ là mặt trăng cũng có đồi núi thung lũng như trên trái đất và các hình trên mặt trăng là bóng dâm cúa các giẫy núi. Vậy thì phải có ánh sáng từ đâu chiếu vào, và Ngài kết luận ánh sáng chỉ có thể đến từ mặt trời, và bóng dâm trên mặt trăng do mặt trời chiếu nghiêng trên thung lũng đồi núi tạo ra. Một đứa trẻ chỉ học kinh điển giáo lý mà nghỉ ra được như vậy thì quả thật rất thông minh.

Cái đồng hồ nhất là các bộ phận bánh xe liên đới với nhau làm Ngài rất say mê. Ngắm mãi rồi Ngài bèn mày mò tháo mấy cái ốc và bánh xe ra. Nhưng Ngài đã thấy ngay là phải cẩn thận xếp sắp, nếu không thì không lắp lại được. Và Ngài rất tự hào cho là mình giỏi khi tháo cái đồng hồ ra từng mảnh rồi lắp lại thì cái đồng hồ lại… chạy như thường ! Dĩ nhiên chuyện này không qua mắt các vị giảng sư và tùy tùng cùa Ngài. Họ ngạc nhiên và thích thú, bèn … tìm xem ai có đồng hồ bị hư không, đem đến cho Đức ĐLLM sửa. Thế là trong thế giới bé nhỏ của Ngài, Đức ĐLLM đã kín đáo thành một người thợ chữa đồng hồ !

Cái máy chiếu phim quay tay thì khó hiểu hơn. Nhờ một người tùy tùng giúp đỡ, Ngài đã làm chạy được một chiếc và hai người xem các bộ phim rất cũ kỹ của Đức ĐLLM thứ 13 để lại.

Chữa đồng hồ và máy quay phim rồi, Ngài bèn có dự án tham lam hơn là học về máy móc xe hơi. Ngài bèn làm thân với ông tài xế Lhakpa Tsering. Ông này tính tình rất quạu, nhưng lại rất hoan hỷ chỉ dẫn cho Ngài khi ông cặm cụi chữa xe. Những chiếc xe đó chỉ chạy loanh quanh, nhưng ông Tsering vẫn đem ra chữa đi chữa lại. Đức ĐLLM đòi ông ta dạy cho mình lái xe. Một hôm Ngài lén đem chiếc Baby-Austin ra lái một mình. Và gây ra một tai nạn nhỏ, làm bể cái đèn pha phía trước. Ngài hoảng hồn loay hoay đi kiếm được một cái đèn khác thay vào. Nhưng cái đèn này lại có kính trong suốt còn cái đèn bị vỡ thì có kính mờ. Làm sao đây ? Ngài bèn lấy đường đốt thành chất lỏng bôi lên bóng đèn, rồi đem xe cất đi. Làm sao ông Tsering không biết, nhưng ông không hề nói gì. Chỉ thấy cái đèn sau này lại có bóng mờ cháy đàng hoàng như cũ.

3. Đam mê học hỏi về khoa học. Những chuyện trên cho thấy Đức ĐLLM ngay từ nhỏ đã có một đầu óc tò mò và thông minh có sáng kiến. Nhưng đó chỉ là những tò mò về kỹ thuật bé nhỏ. Ngài đã thấy ngay là mình phải học hỏi rất nhiều nên đã vào thư viện đọc sách. Trong thư viện của các thế hệ trước để lại có không biết bao nhiêu sách về khoa học kỹ thuật, tuy không phải là những sách cận đại nhất. Đức ĐLLM đã thấy sau kỹ thuật là khoa học, mà khoa học là cả một thế giới mông mênh rộng lớn không kém gì thế giới của kinh điển mà Ngài đã theo học từ bé đến giờ.

Đến năm 16 tuổi, Đức ĐLLM chính thức lên làm chủ xứ Tây Tạng và được mời đi thăm nhiều nước chung quanh. Sang Trung Hoa, Ngài gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai, được thấy các đường xá rộng lớn, xem các nhà thủy điện và các xưởng máy tối tân. Lúc đó Trung Hoa đã dòm ngó và bắt đầu gây hấn với Tây Tạng. Qua Ấn Độ Ngài đã gặp ông Nehru. Nehru hiểu biết rất nhiều về khoa học, đã trở thành một người bạn thiết, sau này đã đón Ngài về ngụ tại Darhamsala bên Ấn Độ khi Đức ĐLLM phải trốn khỏi xứ mình vì Tây Tạng bị Trung Hoa dùng võ lực cưỡng chiếm.

Trong suốt đời lưu vong bên Ấn, Đức ĐLLM được thế giới thông cảm trọng vọng, mời đi giảng dạy mọi nơi. Đến đâu Ngài cũng có hai mục đích : được đàm đạo về Phật Giáo với mọi người và được gặp các nhà khoa học. Khi đến đọc diễn văn tại một nơi nào người ta cũng hỏi trước : « thế trong những buổi nghỉ ngơi, Ngài muốn đi thăm thú ở đâu », thì Đức ĐLLM đều trả lời : « Tôi muốn gặp nhà bác học này, nhà bác học kia, ở gần đây ». Và các nhà bác học đó khi được tin đều rất hân hạnh hoan hỉ đến gặp.

4. Chương trình Mind and Life. Đức ĐLLM đã gặp và trở nên bạn thân của nhiều nhà khoa học nổi tiếng. Nhưng mỗi khi gặp, hai bên chỉ nói chuyện vài giờ. Đến năm 1987, nhà khảo cứu não bộ Francisco Varela và thương gia Adam Engle mới đề nghị Ngài tổ chức một hội nghị nhỏ để Ngài và các khoa học gia có nhiều thì giờ cùng nhau đàm đạo.

Thế là các buổi hội thảo “Mind and Life” được ra đời. Mind nghìa là ý, ý nghĩ, suy nghĩ, khả năng suy tưởng, còn Life là Sống, Đời sống, Sự sống. Cứ hai năm hai bên (một bên là các nhà khoa học muốn hiểu về triết lý đạo Phật, và một bên là Đức ĐLLM và cộng sự) lại họp một lần tại Darhamsala trong trọn một tuần lễ đề thảo luận về các phát minh mới trong khoa học vật lý và những ý tưởng triết lý vũ trụ nhân sinh đã được ghi lại từ các kinh điển trong Phật Giáo. Ông Barry Hershey đã đứng ra lo hết mọi phí tổn và học viện “Mind and Life” còn hoạt động tiếp tục đến nay.

5. Những yếu tố cho sự thích thú của các cuộc đàm đạo. Có ít nhất 4 lý do các buổi trao đổi này đem thích thú cho những người đã được tham dự :

(i) Đức ĐLLM là một kho tàng của hiểu biết về đạo Phật Tây Tạng. Ngài được giáo huấn vô cùng nghiêm túc từ hồi nhỏ, và đã giầy công học tập cho đến tuổi trưởng thành. Ngài có cho tên những vị thầy đã giáo huấn mình : Tadrak Rimpoché, Ling Rimpoché, Trijang Rimpoché, Ngodrup Tsoknyi,…, và viết về họ với lòng biết ơn sâu sa. Tôi không hề nghe tên các vị đó, nhưng cũng hiểu đó là những học giả uyên bác nhất của Tây Tạng bấy giờ.

(ii) Về phía các nhà khoa học, thì có nhiều người khá nổi tiếng : Carl von Weisacker (cộng sự viên của Werner Heisenberg), David Bohm, Francisco Varela đã nói ở trên, các khoa học gia như Anton Zeilinger, Pierre Hut, David Finkelstein, Georges Greenstein, và rất nhiều người nữa.

(iii) Khoảng thời điểm hai bên gặp nhau, có 2 thuyết vật lý vừa mới ra đã làm rung động nền khoa học vật lý: đó là thuyết tương đối của Einstein và thuyết vật lý nguyên tử. Một thuyết về thế giới bao la của các hành tinh và các vì sao, một thuyết về thế giới vô cùng bé nhỏ của các hạt nhân. Hai thái cực xa vời với đời sống thường ngày của chúng ta. Hai thuyết trên đã đưa ra những giả thiết hoàn toàn mới lạ đưa khoa học vật lý đến những phát minh vượt mức.
Thuyết tương đối nói có thể có 2 thế giới khác nhau A và B. Thế giới A với tọa độ không gian ba chiều (x,y,z) và thời gian, t. Thế giới B với tọa độ không gian ba chiều (x’,y’, z’) và thời gian khác, t’. Có những luật biến động viết cùng phương trình y chang trong hai thế giới A và B. Các bạn ai không biết chuyện Từ Thức theo mấy bà tiên xinh đẹp lên Thiên Thai chơi rỡn mấy năm. Khi về thì thấy những bạn bè dưới trần đều đã già khọm cả rồi. Ai ngờ chuyện đó có thể cắt nghĩa bởi thuyết tương đối của Einstein ! (quyến sách của Đức ĐLLM không nói về Từ Thức và Thiên Thai, đó là tôi thêm vào !)

Về thuyết hạt nhân, một khám phá kinh ngạc là trong thế giới bé nhỏ đó, mình không thể định được vị trí của một hạt nhân tại một thời điểm định trước. Hạt nhân có thể ở đó có thể không ở đó. Nhà quan sát chỉ có thể biết nó có thể ở đó với một “sác xuất”. Khi cách đo cho một kết quả càng chính sác về vị trí của hạt nhân thì lại cho một kết quả càng kém chính sác về tốc độ của hạt nhân. Kết quả của đo lường tùy thuộc cách đo và cái máy mình dùng để đo: đo cách nào đi nữa, hễ đo là can thiệp vào kết quả,. Vậy là người quan sát không thể đứng ngoài thực thể mình quan sát. Vũ trụ của các hạt nhân không còn một thế giới khách quan nữa. Điều này khác hẳn với thế giới chúng ta quen sống thường ngày.
Đức ĐLLM dẫn chứng rằng nhiều ý tưởng cận đại trong khoa học đã được bàn đến trong kinh điển Tây Tạng từ ngàn xưa. Như các ý niệm về hạt nhân, về hành tinh, mặt trời, thiên văn, nguồn gốc của vũ trụ. Ngài giảng về luật nhân quả, phép duyên khởi, chữ vô, cái “rỗng” và cái “đầy”, quan niệm người và vũ trụ là một, con người đã thuộc vào vũ trụ mình quan sát, ý niệm vô ngã, vô thường.

(iv) Các nhà khoa học không biết nhiều về đạo Phật, nên đức ĐLLM phải tìm các từ ngữ và suy luận sao cho dễ hiểu. Mặt khác, Đức ĐLLM không biết nhiều về khoa học, lại không hề học toán, nên các khoa học gia cũng phải tìm cách trình bầy sao cho dễ hiểu đối với Ngài. Vì lòng nể trọng với nhau, hai bên đã hết sức cố gắng trong một bầu không khí thân thiện và cới mở.

6. Hai bên đã hiểu nhau đến chừng nào. Muốn trả lời câu này các bạn phải đọc quyển sách. Đức ĐLLM than thở “Các vị giảng giải cho tôi thì tôi có cảm tưởng hiểu được một phần nào. Nhưng khi các vị đi thì lại đem những hiểu biết đó đi với các vị, chẳng để lại bao nhiêu cho tôi”. Các nhà khoa học nói : “Ngài đừng bận tâm, đến nay chưa ai dám nói rằng đã hiểu thấu đáo các lý thuyết vật lý học !”. Tôi đoán các nhà khoa học cũng đã nói : “Gặp Ngài, chúng tôi đã hiểu thêm về triết lý đạo Phật. Nhưng khi Ngài ra đi thì cũng đem kinh điển đi với Ngài chứ không để lại bao nhiêu trong đầu chúng tôi”. Và Đức ĐLLM cũng đã nói tiếp : “Các vị yên tâm, vì đến nay chưa ai dám nói đã hiểu thấu đáo chữ Vô trong đạo Phật”.

Vậy là hai bên cùng ham học và cùng khiêm tốn. Hai bên đã gần lại nhau, và những thảo luận này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến những phương pháp học hành và khảo cứu của cả đôi bên.

Những điều tôi bàn chỉ là vài chục trang trong quyển sách. Quyến sách có 200 trang. Các bạn tìm mà đọc đi. Không ai hiểu hết quyển này đâu mà lo !

Vi Tâm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2022(Xem: 11908)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 5959)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8319)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7443)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 30696)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
01/02/2022(Xem: 17644)
Nằm trong khuôn khổ của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) 2014 tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 1 vừa qua, chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng không hoạt động trong lĩnh vực tài chính, có quan điểm về một cuộc sống hạnh phúc mà không phụ thuộc quá nhiều vào tiền bạc và quyền lực cũng đã diễn ra.
17/11/2021(Xem: 19416)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 15742)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10109)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11181)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567