Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma viết về Đạo Phật & Khoa Học

09/06/201407:25(Xem: 5665)
Đức Đạt Lai Lạt Ma viết về Đạo Phật & Khoa Học

dalailama-1a
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
VIẾT VỀ ĐẠO PHẬT VÀ KHOA HỌC.
Vi Tâm


Đức Đạt Lai Lạt Ma (ĐLLM) viết cả chục cuốn sách, cuốn nào cũng được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Trong những cuốn đã đọc, tôi rất thích cuốn « Cả vũ trụ trong một hạt nhân » (The Universe in a single atom). Tôi thích vì quyển sách đó chứng tỏ tính ham học, sự hiểu biết vô cùng thông thái và lòng cởi mở vị tha của Ngài.

Phần chính cuốn sách bàn về những liên đới giữa các lý thuyết của khoa học cận đại và những nhận xét suy luận về vũ trụ và con người đã viết trong kinh điển Phật giáo Tây Tạng từ ngàn năm về trước. Nhưng ở đây tôi chỉ muốn kể về vài chuyện nhỏ rất lý thú mà Đức ĐLLM đã sống khi Ngài còn nhỏ tuổi. Chuyện Ngài lúc nhỏ tuổi đã máy mó tháo ra lắp lại mấy cái đồng hồ, rồi dùng kính thiên văn ngắm nghía sao trên trời và mặt trăng, rồi học sửa xe ô tô, rồi học lái xe ô tô như thế nào. Những tò mò về kỹ thuật đó đã nuôi trong đầu Ngài lòng ham muốn học hỏi về kỹ thuật rồi về khoa học để sau này thành một Lạt Ma hiểu biết rất nhiều về khoa học hiện đại.

1. Học hành về lịch sử , giáo điều, và triết lý đạo Phật từ hồi 5-6 tuổi. Đức ĐLLM sanh ra trong một gia đình nông dân, chuyên trồng trọt và nuôi gia súc. Năm lên 6 tuổi, Ngài được nhận ra là Đức ĐLLM thứ mười bốn, và được đưa khỏi gia đình vào sống và tu hành trong lâu đài của ĐLLM thứ mười ba trong tỉnh Lhassa. Tại đây Ngài được nhiều vị Thầy chăm lo dạy dỗ. Mỗi ngày phải ngồi thiền trong hai giờ, và ngồi bốn lần một ngày. Ngài học chữ nghĩa, nghi lễ, lịch sử, và triết lý đạo Phật Tây Tạng. Đó là một chương trình đạo tạo chung cho các vị Lạt Ma. Chương trình này không có một tí gì về vật lý, hóa học, hay toán học.

2. Thích dùng và tháo lắp các máy móc. Lúc đó Đức ĐLLM sống trong lâu đài đồ sộ Potala, có đến cả ngàn gian buồng. Vào những giờ nghỉ học Ngài hay lang thang đi phám phá các gian buồng chung quanh, trong đó có chứa nhiều đồ đạc và di vật của các ĐLLM thời trước, nhất là của Đức ĐLLM thứ 13. Trong các cuộc thăm dò đó, nhiều đồ vật đã kích thích tính tò mò của Ngài. Trên hết phải kể là :

1. Một cái đồng hồ cơ khí, lên giây bằng tay, trong đó có nhiều bánh xe xoay vào nhau,

2. Một cái kính thiên văn đồ sộ đặt trên môt cái cột có ba chân,

3. Hai cái máy chiếu phim phải quay bằng tay để lên điện,

4. Ba chiếc xe ô tô, hai xe Baby-Austin kiểu năm 1927, và một chiếc Dodge kiểu năm 1931. Ba chiếc ô tô này được người Anh tặng cho ĐLLM thứ 13. Trong những năm ấy, đó là 3 chiếc xe độc nhất bên Tây Tạng. Khi đó Tây Tạng chưa có đường xá cho xe ô tô, nên họ phải tháo xe thành từng mảnh bên Ấn Độ, cho lên lưng lừa thồ lên núi mang vào lâu đài của Đức ĐLLM rồi lắp các mảnh đó lại thành xe.

Cái kính thiên văn thì quá dễ hiểu. Đức ĐLLM đã đem nó ra ngay sân thượng để ngắm người đi lại dưới thành phố Lhassa. Ngài rất thèm thuồng thấy những đứa trẻ cùng tuổi được thảnh thơi vui đùa dưới phố, trong khi mình cả ngày phải ngồi học. Sau này Ngài rất thành thạo sử dụng máy để ngắm các ngôi sao và mặt trăng. Xứ Tây Tạng ở cao trên núi, đêm về trăng sao hiển rõ mồn một, Ngài say mê ngắm nghía và luôn luôn hỏi han các thầy học cũng là tùy tùng của Ngài về tên các vì sao và các chuỗi sao. Người Tây Tạng sống trên núi cao, nên từ xưa đã rất giỏi về thiên văn. Phần lớn các ngôi sao thấy được trên trời đều có tên bằng tiếng Tây Tạng. Ngắm mặt trăng thì dĩ nhiên thấy nhiều hình thù trên đó. Bên Tây Tạng không có chuyện Hằng Nga và chú cuội, nhưng có chuyện con thỏ trên mặt trăng. Đức ĐLLM quen sống trên đồi núi, bèn nghĩ là mặt trăng cũng có đồi núi thung lũng như trên trái đất và các hình trên mặt trăng là bóng dâm cúa các giẫy núi. Vậy thì phải có ánh sáng từ đâu chiếu vào, và Ngài kết luận ánh sáng chỉ có thể đến từ mặt trời, và bóng dâm trên mặt trăng do mặt trời chiếu nghiêng trên thung lũng đồi núi tạo ra. Một đứa trẻ chỉ học kinh điển giáo lý mà nghỉ ra được như vậy thì quả thật rất thông minh.

Cái đồng hồ nhất là các bộ phận bánh xe liên đới với nhau làm Ngài rất say mê. Ngắm mãi rồi Ngài bèn mày mò tháo mấy cái ốc và bánh xe ra. Nhưng Ngài đã thấy ngay là phải cẩn thận xếp sắp, nếu không thì không lắp lại được. Và Ngài rất tự hào cho là mình giỏi khi tháo cái đồng hồ ra từng mảnh rồi lắp lại thì cái đồng hồ lại… chạy như thường ! Dĩ nhiên chuyện này không qua mắt các vị giảng sư và tùy tùng cùa Ngài. Họ ngạc nhiên và thích thú, bèn … tìm xem ai có đồng hồ bị hư không, đem đến cho Đức ĐLLM sửa. Thế là trong thế giới bé nhỏ của Ngài, Đức ĐLLM đã kín đáo thành một người thợ chữa đồng hồ !

Cái máy chiếu phim quay tay thì khó hiểu hơn. Nhờ một người tùy tùng giúp đỡ, Ngài đã làm chạy được một chiếc và hai người xem các bộ phim rất cũ kỹ của Đức ĐLLM thứ 13 để lại.

Chữa đồng hồ và máy quay phim rồi, Ngài bèn có dự án tham lam hơn là học về máy móc xe hơi. Ngài bèn làm thân với ông tài xế Lhakpa Tsering. Ông này tính tình rất quạu, nhưng lại rất hoan hỷ chỉ dẫn cho Ngài khi ông cặm cụi chữa xe. Những chiếc xe đó chỉ chạy loanh quanh, nhưng ông Tsering vẫn đem ra chữa đi chữa lại. Đức ĐLLM đòi ông ta dạy cho mình lái xe. Một hôm Ngài lén đem chiếc Baby-Austin ra lái một mình. Và gây ra một tai nạn nhỏ, làm bể cái đèn pha phía trước. Ngài hoảng hồn loay hoay đi kiếm được một cái đèn khác thay vào. Nhưng cái đèn này lại có kính trong suốt còn cái đèn bị vỡ thì có kính mờ. Làm sao đây ? Ngài bèn lấy đường đốt thành chất lỏng bôi lên bóng đèn, rồi đem xe cất đi. Làm sao ông Tsering không biết, nhưng ông không hề nói gì. Chỉ thấy cái đèn sau này lại có bóng mờ cháy đàng hoàng như cũ.

3. Đam mê học hỏi về khoa học. Những chuyện trên cho thấy Đức ĐLLM ngay từ nhỏ đã có một đầu óc tò mò và thông minh có sáng kiến. Nhưng đó chỉ là những tò mò về kỹ thuật bé nhỏ. Ngài đã thấy ngay là mình phải học hỏi rất nhiều nên đã vào thư viện đọc sách. Trong thư viện của các thế hệ trước để lại có không biết bao nhiêu sách về khoa học kỹ thuật, tuy không phải là những sách cận đại nhất. Đức ĐLLM đã thấy sau kỹ thuật là khoa học, mà khoa học là cả một thế giới mông mênh rộng lớn không kém gì thế giới của kinh điển mà Ngài đã theo học từ bé đến giờ.

Đến năm 16 tuổi, Đức ĐLLM chính thức lên làm chủ xứ Tây Tạng và được mời đi thăm nhiều nước chung quanh. Sang Trung Hoa, Ngài gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai, được thấy các đường xá rộng lớn, xem các nhà thủy điện và các xưởng máy tối tân. Lúc đó Trung Hoa đã dòm ngó và bắt đầu gây hấn với Tây Tạng. Qua Ấn Độ Ngài đã gặp ông Nehru. Nehru hiểu biết rất nhiều về khoa học, đã trở thành một người bạn thiết, sau này đã đón Ngài về ngụ tại Darhamsala bên Ấn Độ khi Đức ĐLLM phải trốn khỏi xứ mình vì Tây Tạng bị Trung Hoa dùng võ lực cưỡng chiếm.

Trong suốt đời lưu vong bên Ấn, Đức ĐLLM được thế giới thông cảm trọng vọng, mời đi giảng dạy mọi nơi. Đến đâu Ngài cũng có hai mục đích : được đàm đạo về Phật Giáo với mọi người và được gặp các nhà khoa học. Khi đến đọc diễn văn tại một nơi nào người ta cũng hỏi trước : « thế trong những buổi nghỉ ngơi, Ngài muốn đi thăm thú ở đâu », thì Đức ĐLLM đều trả lời : « Tôi muốn gặp nhà bác học này, nhà bác học kia, ở gần đây ». Và các nhà bác học đó khi được tin đều rất hân hạnh hoan hỉ đến gặp.

4. Chương trình Mind and Life. Đức ĐLLM đã gặp và trở nên bạn thân của nhiều nhà khoa học nổi tiếng. Nhưng mỗi khi gặp, hai bên chỉ nói chuyện vài giờ. Đến năm 1987, nhà khảo cứu não bộ Francisco Varela và thương gia Adam Engle mới đề nghị Ngài tổ chức một hội nghị nhỏ để Ngài và các khoa học gia có nhiều thì giờ cùng nhau đàm đạo.

Thế là các buổi hội thảo “Mind and Life” được ra đời. Mind nghìa là ý, ý nghĩ, suy nghĩ, khả năng suy tưởng, còn Life là Sống, Đời sống, Sự sống. Cứ hai năm hai bên (một bên là các nhà khoa học muốn hiểu về triết lý đạo Phật, và một bên là Đức ĐLLM và cộng sự) lại họp một lần tại Darhamsala trong trọn một tuần lễ đề thảo luận về các phát minh mới trong khoa học vật lý và những ý tưởng triết lý vũ trụ nhân sinh đã được ghi lại từ các kinh điển trong Phật Giáo. Ông Barry Hershey đã đứng ra lo hết mọi phí tổn và học viện “Mind and Life” còn hoạt động tiếp tục đến nay.

5. Những yếu tố cho sự thích thú của các cuộc đàm đạo. Có ít nhất 4 lý do các buổi trao đổi này đem thích thú cho những người đã được tham dự :

(i) Đức ĐLLM là một kho tàng của hiểu biết về đạo Phật Tây Tạng. Ngài được giáo huấn vô cùng nghiêm túc từ hồi nhỏ, và đã giầy công học tập cho đến tuổi trưởng thành. Ngài có cho tên những vị thầy đã giáo huấn mình : Tadrak Rimpoché, Ling Rimpoché, Trijang Rimpoché, Ngodrup Tsoknyi,…, và viết về họ với lòng biết ơn sâu sa. Tôi không hề nghe tên các vị đó, nhưng cũng hiểu đó là những học giả uyên bác nhất của Tây Tạng bấy giờ.

(ii) Về phía các nhà khoa học, thì có nhiều người khá nổi tiếng : Carl von Weisacker (cộng sự viên của Werner Heisenberg), David Bohm, Francisco Varela đã nói ở trên, các khoa học gia như Anton Zeilinger, Pierre Hut, David Finkelstein, Georges Greenstein, và rất nhiều người nữa.

(iii) Khoảng thời điểm hai bên gặp nhau, có 2 thuyết vật lý vừa mới ra đã làm rung động nền khoa học vật lý: đó là thuyết tương đối của Einstein và thuyết vật lý nguyên tử. Một thuyết về thế giới bao la của các hành tinh và các vì sao, một thuyết về thế giới vô cùng bé nhỏ của các hạt nhân. Hai thái cực xa vời với đời sống thường ngày của chúng ta. Hai thuyết trên đã đưa ra những giả thiết hoàn toàn mới lạ đưa khoa học vật lý đến những phát minh vượt mức.
Thuyết tương đối nói có thể có 2 thế giới khác nhau A và B. Thế giới A với tọa độ không gian ba chiều (x,y,z) và thời gian, t. Thế giới B với tọa độ không gian ba chiều (x’,y’, z’) và thời gian khác, t’. Có những luật biến động viết cùng phương trình y chang trong hai thế giới A và B. Các bạn ai không biết chuyện Từ Thức theo mấy bà tiên xinh đẹp lên Thiên Thai chơi rỡn mấy năm. Khi về thì thấy những bạn bè dưới trần đều đã già khọm cả rồi. Ai ngờ chuyện đó có thể cắt nghĩa bởi thuyết tương đối của Einstein ! (quyến sách của Đức ĐLLM không nói về Từ Thức và Thiên Thai, đó là tôi thêm vào !)

Về thuyết hạt nhân, một khám phá kinh ngạc là trong thế giới bé nhỏ đó, mình không thể định được vị trí của một hạt nhân tại một thời điểm định trước. Hạt nhân có thể ở đó có thể không ở đó. Nhà quan sát chỉ có thể biết nó có thể ở đó với một “sác xuất”. Khi cách đo cho một kết quả càng chính sác về vị trí của hạt nhân thì lại cho một kết quả càng kém chính sác về tốc độ của hạt nhân. Kết quả của đo lường tùy thuộc cách đo và cái máy mình dùng để đo: đo cách nào đi nữa, hễ đo là can thiệp vào kết quả,. Vậy là người quan sát không thể đứng ngoài thực thể mình quan sát. Vũ trụ của các hạt nhân không còn một thế giới khách quan nữa. Điều này khác hẳn với thế giới chúng ta quen sống thường ngày.
Đức ĐLLM dẫn chứng rằng nhiều ý tưởng cận đại trong khoa học đã được bàn đến trong kinh điển Tây Tạng từ ngàn xưa. Như các ý niệm về hạt nhân, về hành tinh, mặt trời, thiên văn, nguồn gốc của vũ trụ. Ngài giảng về luật nhân quả, phép duyên khởi, chữ vô, cái “rỗng” và cái “đầy”, quan niệm người và vũ trụ là một, con người đã thuộc vào vũ trụ mình quan sát, ý niệm vô ngã, vô thường.

(iv) Các nhà khoa học không biết nhiều về đạo Phật, nên đức ĐLLM phải tìm các từ ngữ và suy luận sao cho dễ hiểu. Mặt khác, Đức ĐLLM không biết nhiều về khoa học, lại không hề học toán, nên các khoa học gia cũng phải tìm cách trình bầy sao cho dễ hiểu đối với Ngài. Vì lòng nể trọng với nhau, hai bên đã hết sức cố gắng trong một bầu không khí thân thiện và cới mở.

6. Hai bên đã hiểu nhau đến chừng nào. Muốn trả lời câu này các bạn phải đọc quyển sách. Đức ĐLLM than thở “Các vị giảng giải cho tôi thì tôi có cảm tưởng hiểu được một phần nào. Nhưng khi các vị đi thì lại đem những hiểu biết đó đi với các vị, chẳng để lại bao nhiêu cho tôi”. Các nhà khoa học nói : “Ngài đừng bận tâm, đến nay chưa ai dám nói rằng đã hiểu thấu đáo các lý thuyết vật lý học !”. Tôi đoán các nhà khoa học cũng đã nói : “Gặp Ngài, chúng tôi đã hiểu thêm về triết lý đạo Phật. Nhưng khi Ngài ra đi thì cũng đem kinh điển đi với Ngài chứ không để lại bao nhiêu trong đầu chúng tôi”. Và Đức ĐLLM cũng đã nói tiếp : “Các vị yên tâm, vì đến nay chưa ai dám nói đã hiểu thấu đáo chữ Vô trong đạo Phật”.

Vậy là hai bên cùng ham học và cùng khiêm tốn. Hai bên đã gần lại nhau, và những thảo luận này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến những phương pháp học hành và khảo cứu của cả đôi bên.

Những điều tôi bàn chỉ là vài chục trang trong quyển sách. Quyến sách có 200 trang. Các bạn tìm mà đọc đi. Không ai hiểu hết quyển này đâu mà lo !

Vi Tâm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/01/2020(Xem: 10702)
Đức Tổng Giám mục Colombo, Đức Hồng Y Malcolm Ranjith người Sri Lanka,Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sri Lanka, phục vụ Giáo hội Công giáo La Mã của Thánh Matthew ở Ekala, Sri Lanka, gần đây đã nói điều gì đó dọc theo dòng “Nhân quyền đã trở thành tôn giáo mới nhất ở phương Tây. . . Người dân Sri Lanka đã nghiêng về con người thông qua Phật giáo, truyền thống tôn giáo chính thống của họ đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử. . . Những người không thực hành tôn giáo là những người bị treo lên Nhân quyền”.
04/01/2020(Xem: 8154)
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có thiền truyện thuật lại cuộc hỏi đáp giữa Triệu Châu và Nam Tuyền: " Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: 'Thế nào là đạo?' Nam Tuyền đáp : ‘Tâm bình thường là đạo’ (Bình Thường Tâm thị Đạo). _’Lại có thể nhằm tiến đến chăng?’ _ ‘Nghĩ nhằm tiến đến là trái’. _ ‘Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?’ _ ‘Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy’. Ngay nơi lời này Triệu Châu ngộ lý, bèn đi thọ giới...." Vậy, thế nào là “Tâm Bình Thường”?
08/12/2019(Xem: 23710)
Kính lễ Phật Pháp Tăng là thể hiện niềm tin sâu xa của Tứ chúng đệ tử đức Phật mỗi ngày đối với Tam bảo. Đệ tử Phật dù tu tập chứng A-la-hán vẫn suốt đời nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng không hề xao lãng. Các vị Bồ tát từ khi phát Bồ đề tâm, tu tập trải qua các địa vị từ Tín, Trú, Hạnh, Hướng, Địa cho đến Đẳng giác không phải chỉ nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng một đời mà đời đời, kiếp kiếp đều nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng. Nhờ sự nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng như vậy, mà Bồ tát không rơi mất hay quên lãng tâm bồ đề, khiến nhập được vào cảnh giới Tịnh độ không thể nghĩ bàn của chư Phật, nhập vào thể tính bất sinh diệt cùng khắp của Pháp và nhập vào bản thể hòa hợp-thanh tịnh, sự lý dung thông vô ngại của Tăng.
08/12/2019(Xem: 23361)
Phật Giáo và Những Dòng Suy Tư (sách pdf)
22/11/2019(Xem: 22822)
Nam mô ADIĐÀ PHẬT , xin Thầy giải thích thắc mắc của con từ lâu : “ Nam mô Tam Châu Cảm Ứng Di Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát “: 1- Tại sao Tam Châu mà không là Tứ Châu ? 2- Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát có phải là Vị Bồ Tát đứng chung với Ngài Tiêu Diện BT ở bàn thờ trước hall mà khi chúng con mới vào chùa QDT dẫn đến và nói : cô chú khi mới vào chùa đến xá chào 2 Vị BT này ( check in ) trước khi ra về cũng đến xá chào ( check out).Xin Thầy nói về tiểu sử của 2 Vị BT ( 2 security officers) mà Phật đã bổ nhiệm xuống cho mỗi chùa .Xin mang ơn Thầy 🙏
08/11/2019(Xem: 13326)
Thanh Từ Thiền Sư, tuyên ngôn như thế, lời vàng đanh thép, lý tưởng cao siêu, muôn đời bất diệt. Phật Giáo Dân Tộc, đồng hành muôn thuở, tuy hai mà một, bền lòng sắc son, nẻo đạo thanh cao, đường đời rộng mở. Ông Dương Ngọc Dũng, mang danh tiến sĩ, học vị giáo sư, nói năng như khỉ, hành vị đáng khinh, giảng đường đại học, kỳ thị tôn giáo, nói xàm nói láo, xúc phạm Phật giáo, bôi nhọ Tăng Ni.
03/09/2019(Xem: 8532)
Hiện tình quốc tế và đất nước đang diễn biến dồn dập hơn bao giờ hết. Khi chính quyền các quốc gia và định chế quốc tế tỏ ra không đủ khả năng để ứng phó trước nguy cơ chiến tranh có thể bộc phát, thì một chủ đề đạo đức tôn giáo cần được thảo luận: Phật giáo có biện minh nào cho chính nghĩa trong cuộc chiến tương lai không?
22/08/2019(Xem: 10799)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
16/08/2019(Xem: 11258)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
30/07/2019(Xem: 6706)
* “Tuyên ngôn Venise của UNESCO nói: “Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó SỰ GẶP GỠ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu. Sự gặp gỡ chắc chắn xảy ra đó sẽ đem lại cho nhân loại MỘT NỀN VĂN MINH MỚI”. (Báo Giác Ngộ số 15/1991). -- * - “Sự chuyển y (đột chuyển) tâm thức gắn liền với sự chuyển hoá não, tạo ra phẩm chất mới cho nhãn quan tinh thần. Chuyển y xuất sinh đốn ngộ. - Lời giảng nhằm giúp người nghe hiểu về lí đạo lí thiền, lời đó chỉ có “phẩm chất giảng sư” (vì “hiểu về” khác với “thấy biết trực tiếp”). Lời chỉ thẳng nhằm giúp người nghe (đã từng dò tìm tự tâm) tự thấy lại tâm mình (không suy nghĩ, đốn kiến), lời đó mang “phẩm chất thiền sư” đích thực. Ví dụ: “Vô niệm, niệm tức chánh”, đây là lời nói mang “phẩm chất thiền sư” đích thực, giúp người nghe trực ngộ và tự ấn chứng (vì không thể suy nghĩ để hiểu câu nói này)”. (https://quangduc.com/a34369/thien-ngon).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567