Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 6: Triết học Jain

08/04/201319:35(Xem: 5766)
Bài 6: Triết học Jain

Bài 06: Triết học Jain

Jainism- Kỳ-na giáo là một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda.

A. Đạo Jain

I. Bối cảnh và xuất xứ:

Theo dòng thời gian tư tưởng triết học của người Ấn được phân chia theo: 1.500 TCN là giai đoạn thống trị của Vệ Đà[1], Áo nghĩa thư[2]và sau đó 1000 năm là thời kỳ phán giáo của các hệ thống triết học chánh thống giáo nổi bậc là đạo Jaina, đạo Phật[3], và học thuyết Bhagavad Gita[4]được phát triển cho đến ngày nay. Điều đó cho thấy dòng lịch sử của người Ấn đã phát triển tư tưởng đến đỉnh cao, nhằm đáp ứng cho sự khát vọng của con người muốn có một câu trả lời thỏa đáng là con người từ đâu mà có và vũ trụ này hữu hạn hay vô hạn? Câu hỏi đó cho đến thời đại chúng ta đang còn là một thách thức[5], vậy chúng ta thử tìm đến cách giải quyết của Đạo Jain ra sao khi đã có mặt từ thời cổ đại được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda, và trải qua 24 đời truyền thừa những vị ấy được gọi là các tirthankara-người lội qua chỗ cạn. Sở dĩ có danh xưng ấy vì họ đã giúp cho các đệ tử, những người đi theo đạo lý, vượt qua bến bờ đau khổ luân hồi của thế gian và đạt đượt giác ngộ. Đỉnh điểm của học thuyết đó đã phát triển rực rỡ cùng thời với đức Phật.

II. Những nét tiêu biểu của Jainism:

Jainism- Kỳ-na giáo là một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda. Nhưng học thuyết đó đã thoát thai và mang dáng dấp của nền Văn minh lưu vực Ấn hà. Kỳ-na giáo phát triển như một hệ quả tất yếu bởi cái bóng quá lớn của Veda che khuất mọi ý tưởng tự do của con người: từ chủ trương tế lễ, mọi sinh hoạt đời sống và ngay cả tính thẩm quyền trong giáo lý của Veda[6]. Vì vậy, sự thay đổi của họ với nhận thức phát triển, tư duy phóng khoảng của nền văn minh giúp họ tạo nên một lối đi mới là nhu cầu ắt có và đủ. Sự khai phóng của họ mang chút dáng vẻ những kẻ phiêu lưu trong lĩnh vực tư tưởng, chính bước đột phá đó đã được nhiều người ủng hộ với chủ trương bất bạo động mọi hình thức, sống trong kham nhẫn tuyệt đối trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành.

Vì vậy khi phân tích Thuật ngữ chúng ta sẽ thấy chữ Jainism có thành tố là “ji” có nghĩa là chinh phục được khát vọng, hay chinh phục những ràng buộc. “Jinacó nghĩa là người chinh phục tất cả kẻ thù nội tại và bất tịnh của tinh thần. Cho nên biểu tượng thành công của các vị Thánh là những con người bình thường đã dùng nhiều phương pháp tu tập để vượt qua khỏi sự ràng buộc của cuộc đời, khổ đau về thể xác và tinh thân, để đạt được giải thoát. Vị thánh đầu tiên là Rishabha truyền thừa đến 24 đời và vị cuối cùng được tôn kính nhất là Mahāvira[7](Đại Hùng), ngài thuộc dòng họ Sát-đế-lợi ở Vaiśālī[8]. Trong nền tảng đạo lý lại phát sinh ra hai trường phái dường như mâu thuẩn và đối lập, nhưng sự tương phản đó lại là sự hỗ trợ cho nhau cùng tồn tại và phát triển. Trường phái śvetāmbarascho phép tu sĩ mặc y phục màu trắng (white-clothed). Thánh địa của trường phái nằm ở Gujarat miền Tây bắc và miền Tây Rājputāna về sau đã phát triển đến miền Trung và miền Bắc Ấn Độ.

Cũng từ một học thuyết của Kỳ-na-giáo nhưng trường phái Digambarascấm không cho mặc y phục, nên một số tôn giáo khác gọi tên biếm nhẽ là Phái lõa thể (space-clothed) khi tiếp xúc với trường phái Digambaras. Trường phái này cho phép người nữ xuất gia, nhưng chỉ được ở trong tu viện không được ra ngoài khất thực như những nam tu.

III. Giáo điều của Kỳ-na-giáo:

Những người nhận ra được chân lý, muốn theo giáo đoàn làm tu sĩ phải thực hành 22 điều khổ hạnh như: kềm chế cơn đói, khát, chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết nóng, lạnh, chấp nhận môi trường thiên nhiên cho muỗi đốt, ruồi bu, đối với cơ thể khống chế sự khát vọng về quyền lực, danh vọng, thù ghét, yêu thương và chối bỏ hoàn toàn nhục dục … và với tư tưởng:

** Bất hại là quan điểm giáo lý quan trọng của Kỳ-na giáo. Bất hại bắt nguồn từ tư tưởng, sau đó được bày tỏ qua lời nói và cuối cùng là hành động cho nên Tu sĩ phải luôn ghi nhớ về các qui định sau:

1/ Cẩn trọng trong ngôn từ.
2/ Cẩn trọng trong suy tư.
3/ Thận trọng khi đi đứng.
4/ Tập trung khi nâng vật lên hoặc để vật xuống.
5/ Khi ăn uống, phải quan sát thức ăn và nước uống.

6/ Từ bỏ tất cả những sở hữu thế tục.
7/ Để cho ngũ giác quan thỏa mãn là một tội lỗi.

8/ Mỗi năm ẩn cư 3 tháng mùa mưa.

9/ Chấp nhận thức ăn từ sự hỷ cúng của thế gian.

10/ Mặc đồ khác biệt với xã hội.

11/ Ăn chay tuyệt đối.

Những qui định cho người cho tại gia có 5 điều:

1/ Không tổn hại mạng sống hữu tình (ahiṃsa)
2/ Không nói dối (satya)
3/ Không trộm cắp (asteya)
4/ Không tà dâm (brahmacarya)
5/ Hạn chế tham đắm các sở hữu thế tục (aparigraha)

Lời khuyên thứ năm của giáo điều còn mang thông điệp đến các tín đồ, không nên để thân xác và tâm lý bị lôi cuốn, trói buộc vào thế giới vật dục, do giác quan mang lại những khoái cảm thì cũng bị xem là tội lỗi.

B. Triết học Jain

IV. Tôn chỉ Kỳ-na giáo:

1/Đạo đức học:

* Bất hại là giao lý trọng tâm của quan điểm Kỳ-na giáo. Được nhận thức qua tư tưởng, sau đó được bày tỏ qua lời nói và cuối cùng là hành động.

* Bác bỏ các nghi lễ Bà la môn như là phương thế để thành tựu giải thoát, từ việc cử hành chính xác các nghi lễ.

* Phủ định sự hiện hữu của cảnh giới thiêng liêng vĩnh cửu, ngài tin rằng linh hồn của con người bị mắc kẹt trong thế giới vật chất, cần được giải thoát nhằm thành tựu sự toàn mỹ.

* Biến giới luật bất hại (ahimsa) thành tâm điểm tuyệt đối của triết học và đạo đức học thực hành.

* Kỳ Na giáo mang tính vô thần chủ nghĩa. Hoàn toàn khác với Ấn giáo, Kỳ Na giáo không có những cái tuyệt đối, không có sự hiệp nhất sau cùng của Tiểu ngã Atman vào Ðại ngã Brahman hằng cửu. Thay vào đó, Kỳ Na giáo cho rằng giải thoát sau cùng là sự thừa nhận rằng tinh thần của ta mới là một thực tại tối hậu.

* Chính nghiệp báo lèo lái vũ trụ, chứ chẳng phải một thần linh nào cả. Thế giới không có khởi đầu nhưng được xem là đang chuyển động qua các thời kỳ tiến hóa và thoái hóa.

* Khi linh hồn được giải thoát, ở đó chỉ còn lại niềm tin, tri thức, đức hạnh và mọi trạng thái chân chính hoàn hảo. Khi hết thảy các nghiệp báo ràng buộc đều bị loại bỏ, linh hồn vút bay lên tới bến bờ không gian vũ trụ.

2/ Thánh điển:

2.1. Bốn nguyên lý đưa đến tuệ giác:
a) Công đức của tôn giáo (dharma)
b) Thịnh vượng (artha)
c) An lạc (kāma)
d) Giải thoát (mokṣa)

2.2. Thất đế:

Muốn chế ngự bản thân, phải có phương pháp tự kiềm chế các loại ham muốn và dục vọng. Phương pháp tích cực thuộc về sự chỉ dẫn theo nguyên tắc mà các vị tổ đã trải qua, có như vậy mới hướng được đạo tâm phát triển.

1/ Mạng

2/ phi mạng (linh hồn và phi linh hồn)
3/ Lậu nhập (nghiệp vào linh hồn của con người)

4/ Lậu hoặc (trói buộc ngăn không cho con người giải thoát)
5/ Chế ngự.

6 Tĩnh tâm

7/ giải thoát

2.3. Tam bảo:

Một nguyên tắc khác cũng là phần cốt lõi của người tu theo Kỳ Na giáo phải sống với “Tam bảo”, tức là thực hiện đúng đắn ba nguyên tắc, để không đi quá xa với nền tảng giáo lý:

1/ Niềm tin không thay đổi.
2/ Tri thức phải hiểu biết sâu sắc.
3/ Ðức hạnh phải rạng ngời.

IV. KẾT LUẬN:

Những người được ca tụng và thường là những kẻ phiêu lưu trong lĩnh vực tư tưởng không còn thỏa mãn với những bài kinh Vệ đà thiêng liêng cũng như những việc thờ cúng của đạo Bà la môn nữa. Giáo chủ Rishabhacủa Kỳ-na-giáo là một trong những chủ trương đó. Họ đi tìm thứ kinh nghiệm huyền bí nằm ngoài những hình thức cổ truyền. Tôn giáo Veda cổ được những người chủng tộc Indo-Aryens đưa vào Ấn Độ từ hàng nghìn năm trước thật ra đã thoái hóa và máy móc. Những tu sỹ Bà la môn giáo, phải mất tới ba chục năm để nhớ thuộc lòng những bản kinh thiêng bằng một ngôn ngữ đã chết, từ đó tạo nên một bức màng huyền bí thái quá trong những nghi lễ. Vì chỉ có một bộ phận tăng lữ tiên tiến trong xã hội mới được tham gia. Từ nguyên nhân sâu xa đó mọi giai cấp khác trong xã hội bắt đầu ở trạng thái ấp ủ tư duy và giải tỏa những vướn mắc tự chính mình chứ không còn mong đợi từ thánh điển Veda và tăng lữ. Trong thời điểm đó sự xuất hiện của Giáo chủ Rishabhanhư có một luồn gió mới thổi vào tâm trí một học thuyết mở được nhiều tầng lớp quan tâm:

* Đề cập chuyện tái sinh, chủ trương linh hồn của cá thể vẫn tồn tại sau khi chết để tái sinh dưới một dạng mới (người, súc vật, thần thánh hoặc ngạ quỷ) cho tới khi đủ một số lần nhất định. Cái vòng luân hồi đó không thể xê dịch và ai cũng phải tái sinh làm thân phận nghèo khổ hay xúc vật cho dù đó vị là Bà-la-môn.

* Bất cứ ai cũng có thể tiếp cận việc tái sinh qua hai con đường:

1/ Làm người sống khổ hạnh hoặc trở thành tu sỹ hành khất.

2/ Chấm dứt mọi sự ràng buộc người tu sĩ phải hoàn toàn trần truồng, sống ẩn dật hoặc tập hợp thành những nhóm nhỏ ở trong rừng.

Con đường khổ hạnh phải chấp nhận mọi luật lệ hà khắc, thông qua sự hành xác, để đạt được một quyền năng tâm linh huyền bí. Và con đường dẫn đến kết quả đó cần phải có những yếu tố căn bản của nội tại và ngoại tại:

* Không chấp nhận hệ thống giai cấp của Veda.
* Chủ trương bất hại, hoà bình.

* Chủ trương hoàn toàn vô thần, khái niệm về thượng đế hoàn toàn không có chỗ đứng trong Kỳ-na giáo.

* Trọng tâm giáo lý là kham nhẫn tuyệt đối trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành.

* Khẳng định rằng nghiệp là những vật chất vi tế (subtle material objects) gắn liền với linh hồn như bóng với hình không thể tách rời nhau. Con người muốn thoát khỏi luân hồi phải tu tập khổ hạnh và muốn hiểu rõ về vũ trụ thì không thể lấy cái hiểu biết hữu hạn của trí não để nhật thức cái vô hạn mà chỉ có thiền định mới đem lại ánh sáng hiểu biết đó.

27/10/2009

SÁCH THAM KHẢO

1/ Michael Jordan.-Dịch giả: Phan Quang Định. Minh Triết Đông Phương.Nhà xuất bản: Nxb Mỹ thuật, 2004.

2/ Lâm Thanh Huyền. Triết Học Và Thiền Học Phương Đông - Giai Thoại Thiền Sư. Nxb Lao động, 2007.

3/ Dan Ariely, Phi Lý Trí - Khám Phá Những Động Lực Vô Hình Ẩn Sau Những Quyết Định Của Con Người.Nxb Lao động Xã hội, 2009.

4/ Tony Buzan.-Dịch giả: Nguyễn Thế Anh. Lập Bản Đồ Tư Duy - Công Cụ Tư Duy Tối Ưu Sẽ Làm Thay Đổi Cuộc Sống Của Bạn. Nxb Lao động Xã hội. 2008.

5/ Trịnh Xuân Thuận. Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1. Nhà xuất bản: Nxb Trẻ. 2008.

6/ Nhiều người dịch. Albert Einstein Và Sự Tiến Triển Của Vật Lý Học Hiện Đại. Nxb KHKT, 2006.

Trịnh Xuân Thuận. Cái Vô Hạn Trong Lòng Bàn Tay(Từ Big Bang Đến Giác Ngộ) Nxb Trẻ. 2007.

7/NguyễnƯớc. Đại Cương Triết Học Đông Phương. Xuất bản. 2009.

http://www.censusindia.gov.in/Census_Data_2001. truy cập ngày 26.10.2009.

8/ Doãn Chính, các trường phái triết học Ấn Ðộ, NXB Ðại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002, dịch từ bản tiếng Anh của J.L. Jaini, Sacred Books of the Jaina (Arrah, India: The Central Jaina Publishing House, 1920).

9/ http://www.daophatngaynay.com (truy cập ngày 26.10.2009)

10/ http://www.thuvienhoasen.org. (truy cập ngày 27.10.2009)


[1] · Rig Veda: thi tụng cái biết, bao gồm gần mười quyển, với 1028 tụng ca mà bài cổ nhất có từ thế kỷ 15 trước Công nguyên và những bài gần nhất cũng khoảng thế kỷ thứ 10 trước Công nguyên. Những vị thần được ca tụng nhiều nhất là Indra, Varuna và Agni.

· Sama Veda: ca vịnh thần chú, gồm 585 khổ thơ, tương ứng với các giai điệu được dùng trong những tụng ca hiến tế (hymmes des sacrifices).

· Yayur Veda: là một chuỗi các công thức hàm chứa những nghi lễ khác nhau: dâng lễ trăng tròn, trăng mới, dâng cúng các vong nhân, dâng thần lửa, dâng bốn mùa..

· Atharva Veda: triển khai ý nghĩa ba bộ kinh kia - gồm các bài thuyết giáo, có nội dung thiết thực và triết học. Các bài thuyết giáo chứa đựng thông điệp tâm linh căn bản của Ấn Độ giáo

[2] Áo nghĩa thư(zh. 奧義書, sa. upaniṣad), “kinh điển với ý nghĩa uyên áo”, là một loại văn bản được xem là thánh điển rất quan trọng của Ấn Độ giáo với nội dung giải thích, diễn giảng bốn bộ Veda vốn ẩn chứa tính chất bí ẩn nên upaniṣadđược xem đỉnh cao của trí tuệ.

[3] Phậtlà chữ viết tắt của Phật-đà(zh. 佛陀), đây là danh hiệu phiên âm từ tiếng Phạn hoặc Pali buddha(bo. sangs rgyasསངས་རྒྱས་) sang Hán-Việt; dịch ý là Giác giả(zh. 覺者), tức “Người tỉnh thức”. Một cách gọi khác là Bụt(đọc Nôm chữ 孛 hoặc 侼).

[4] Bhagavad Gitalà một văn bản cổ bằng tiếng Phạn bao gồm 700 câu của bộ trường ca Mahabharata. Những câu này, sử dụng dạng thơ mỗi câu có năm âm tiết với nhiều so sánh và ẩn dụ, mang nhiều tính thơ ca. Bhagavad Gita cũng được gọi là Gītopaniṣad, ngụ ý là nó là một “Upanishad”. Về mặt học thuật nó được xem kiến thức được tiết lộ(bởi Đấng tối cao).

[5] Sự sống có thể tồn tại trên vệ tinh sao Mộc. Trong mấy thập kỷ qua nhân loại chưa tìm ra bất kỳ bằng chứng đáng thuyết phục nào chứng tỏ sự sống tồn tại bên ngoài trái đất, song từ lâu giới khoa học đã coi Europa - thiên thể bay quanh sao Mộc - là nơi lý tưởng để tìm kiếm hoạt động sinh học. Bề mặt trẻ và rất mịn của Europa khiến các nhà khoa học tin rằng có một đại dương ngầm nằm bên dưới lớp ngoài cùng của nó. (truy cập ngày 26/10/2009) http://vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2009/10/3BA14EC3/

[6] 1/ Thẩm quyền của các kinh Veda (sách thánh);

2/ Giá trị của các lễ tế được cử hành đúng nghi thức và do bởi đẳng cấp tư tế Bà la môn.

3/ Ðức tin của Ấn giáo chính thống cũng đặt trên hai cơ sở:

4/ Thực tại hằng cửu của Thượng đế (Brahman), có thể hiểu khái quát như là Ðại ngã, trong các dạng thức muôn hình muôn vẻ của thực tại tối hậu ấy;

5/ Linh hồn của con người (Atman), có thể hiểu khái quát là Tiểu ngã, cái tối hậu sẽ hòa nhập vào Ðại ngã.

[7] Vị tổ thứ 24, Mahavira, là một nhân vật lịch sử, sống cùng thời đại với Ðức Phật vào cuối thế kỷ 6 tới đầu thế kỷ 5 trước CN.

[8] Hiện nay thuộc tiểu bang Bihar, miền Đông nước Ấn độ.

----o0o----

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12405)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15288)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 12183)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 17141)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12766)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7959)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20512)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11828)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9263)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10507)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567