Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 6: Triết học Jain

08/04/201319:35(Xem: 5683)
Bài 6: Triết học Jain

Bài 06: Triết học Jain

Jainism- Kỳ-na giáo là một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda.

A. Đạo Jain

I. Bối cảnh và xuất xứ:

Theo dòng thời gian tư tưởng triết học của người Ấn được phân chia theo: 1.500 TCN là giai đoạn thống trị của Vệ Đà[1], Áo nghĩa thư[2]và sau đó 1000 năm là thời kỳ phán giáo của các hệ thống triết học chánh thống giáo nổi bậc là đạo Jaina, đạo Phật[3], và học thuyết Bhagavad Gita[4]được phát triển cho đến ngày nay. Điều đó cho thấy dòng lịch sử của người Ấn đã phát triển tư tưởng đến đỉnh cao, nhằm đáp ứng cho sự khát vọng của con người muốn có một câu trả lời thỏa đáng là con người từ đâu mà có và vũ trụ này hữu hạn hay vô hạn? Câu hỏi đó cho đến thời đại chúng ta đang còn là một thách thức[5], vậy chúng ta thử tìm đến cách giải quyết của Đạo Jain ra sao khi đã có mặt từ thời cổ đại được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda, và trải qua 24 đời truyền thừa những vị ấy được gọi là các tirthankara-người lội qua chỗ cạn. Sở dĩ có danh xưng ấy vì họ đã giúp cho các đệ tử, những người đi theo đạo lý, vượt qua bến bờ đau khổ luân hồi của thế gian và đạt đượt giác ngộ. Đỉnh điểm của học thuyết đó đã phát triển rực rỡ cùng thời với đức Phật.

II. Những nét tiêu biểu của Jainism:

Jainism- Kỳ-na giáo là một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda. Nhưng học thuyết đó đã thoát thai và mang dáng dấp của nền Văn minh lưu vực Ấn hà. Kỳ-na giáo phát triển như một hệ quả tất yếu bởi cái bóng quá lớn của Veda che khuất mọi ý tưởng tự do của con người: từ chủ trương tế lễ, mọi sinh hoạt đời sống và ngay cả tính thẩm quyền trong giáo lý của Veda[6]. Vì vậy, sự thay đổi của họ với nhận thức phát triển, tư duy phóng khoảng của nền văn minh giúp họ tạo nên một lối đi mới là nhu cầu ắt có và đủ. Sự khai phóng của họ mang chút dáng vẻ những kẻ phiêu lưu trong lĩnh vực tư tưởng, chính bước đột phá đó đã được nhiều người ủng hộ với chủ trương bất bạo động mọi hình thức, sống trong kham nhẫn tuyệt đối trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành.

Vì vậy khi phân tích Thuật ngữ chúng ta sẽ thấy chữ Jainism có thành tố là “ji” có nghĩa là chinh phục được khát vọng, hay chinh phục những ràng buộc. “Jinacó nghĩa là người chinh phục tất cả kẻ thù nội tại và bất tịnh của tinh thần. Cho nên biểu tượng thành công của các vị Thánh là những con người bình thường đã dùng nhiều phương pháp tu tập để vượt qua khỏi sự ràng buộc của cuộc đời, khổ đau về thể xác và tinh thân, để đạt được giải thoát. Vị thánh đầu tiên là Rishabha truyền thừa đến 24 đời và vị cuối cùng được tôn kính nhất là Mahāvira[7](Đại Hùng), ngài thuộc dòng họ Sát-đế-lợi ở Vaiśālī[8]. Trong nền tảng đạo lý lại phát sinh ra hai trường phái dường như mâu thuẩn và đối lập, nhưng sự tương phản đó lại là sự hỗ trợ cho nhau cùng tồn tại và phát triển. Trường phái śvetāmbarascho phép tu sĩ mặc y phục màu trắng (white-clothed). Thánh địa của trường phái nằm ở Gujarat miền Tây bắc và miền Tây Rājputāna về sau đã phát triển đến miền Trung và miền Bắc Ấn Độ.

Cũng từ một học thuyết của Kỳ-na-giáo nhưng trường phái Digambarascấm không cho mặc y phục, nên một số tôn giáo khác gọi tên biếm nhẽ là Phái lõa thể (space-clothed) khi tiếp xúc với trường phái Digambaras. Trường phái này cho phép người nữ xuất gia, nhưng chỉ được ở trong tu viện không được ra ngoài khất thực như những nam tu.

III. Giáo điều của Kỳ-na-giáo:

Những người nhận ra được chân lý, muốn theo giáo đoàn làm tu sĩ phải thực hành 22 điều khổ hạnh như: kềm chế cơn đói, khát, chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết nóng, lạnh, chấp nhận môi trường thiên nhiên cho muỗi đốt, ruồi bu, đối với cơ thể khống chế sự khát vọng về quyền lực, danh vọng, thù ghét, yêu thương và chối bỏ hoàn toàn nhục dục … và với tư tưởng:

** Bất hại là quan điểm giáo lý quan trọng của Kỳ-na giáo. Bất hại bắt nguồn từ tư tưởng, sau đó được bày tỏ qua lời nói và cuối cùng là hành động cho nên Tu sĩ phải luôn ghi nhớ về các qui định sau:

1/ Cẩn trọng trong ngôn từ.
2/ Cẩn trọng trong suy tư.
3/ Thận trọng khi đi đứng.
4/ Tập trung khi nâng vật lên hoặc để vật xuống.
5/ Khi ăn uống, phải quan sát thức ăn và nước uống.

6/ Từ bỏ tất cả những sở hữu thế tục.
7/ Để cho ngũ giác quan thỏa mãn là một tội lỗi.

8/ Mỗi năm ẩn cư 3 tháng mùa mưa.

9/ Chấp nhận thức ăn từ sự hỷ cúng của thế gian.

10/ Mặc đồ khác biệt với xã hội.

11/ Ăn chay tuyệt đối.

Những qui định cho người cho tại gia có 5 điều:

1/ Không tổn hại mạng sống hữu tình (ahiṃsa)
2/ Không nói dối (satya)
3/ Không trộm cắp (asteya)
4/ Không tà dâm (brahmacarya)
5/ Hạn chế tham đắm các sở hữu thế tục (aparigraha)

Lời khuyên thứ năm của giáo điều còn mang thông điệp đến các tín đồ, không nên để thân xác và tâm lý bị lôi cuốn, trói buộc vào thế giới vật dục, do giác quan mang lại những khoái cảm thì cũng bị xem là tội lỗi.

B. Triết học Jain

IV. Tôn chỉ Kỳ-na giáo:

1/Đạo đức học:

* Bất hại là giao lý trọng tâm của quan điểm Kỳ-na giáo. Được nhận thức qua tư tưởng, sau đó được bày tỏ qua lời nói và cuối cùng là hành động.

* Bác bỏ các nghi lễ Bà la môn như là phương thế để thành tựu giải thoát, từ việc cử hành chính xác các nghi lễ.

* Phủ định sự hiện hữu của cảnh giới thiêng liêng vĩnh cửu, ngài tin rằng linh hồn của con người bị mắc kẹt trong thế giới vật chất, cần được giải thoát nhằm thành tựu sự toàn mỹ.

* Biến giới luật bất hại (ahimsa) thành tâm điểm tuyệt đối của triết học và đạo đức học thực hành.

* Kỳ Na giáo mang tính vô thần chủ nghĩa. Hoàn toàn khác với Ấn giáo, Kỳ Na giáo không có những cái tuyệt đối, không có sự hiệp nhất sau cùng của Tiểu ngã Atman vào Ðại ngã Brahman hằng cửu. Thay vào đó, Kỳ Na giáo cho rằng giải thoát sau cùng là sự thừa nhận rằng tinh thần của ta mới là một thực tại tối hậu.

* Chính nghiệp báo lèo lái vũ trụ, chứ chẳng phải một thần linh nào cả. Thế giới không có khởi đầu nhưng được xem là đang chuyển động qua các thời kỳ tiến hóa và thoái hóa.

* Khi linh hồn được giải thoát, ở đó chỉ còn lại niềm tin, tri thức, đức hạnh và mọi trạng thái chân chính hoàn hảo. Khi hết thảy các nghiệp báo ràng buộc đều bị loại bỏ, linh hồn vút bay lên tới bến bờ không gian vũ trụ.

2/ Thánh điển:

2.1. Bốn nguyên lý đưa đến tuệ giác:
a) Công đức của tôn giáo (dharma)
b) Thịnh vượng (artha)
c) An lạc (kāma)
d) Giải thoát (mokṣa)

2.2. Thất đế:

Muốn chế ngự bản thân, phải có phương pháp tự kiềm chế các loại ham muốn và dục vọng. Phương pháp tích cực thuộc về sự chỉ dẫn theo nguyên tắc mà các vị tổ đã trải qua, có như vậy mới hướng được đạo tâm phát triển.

1/ Mạng

2/ phi mạng (linh hồn và phi linh hồn)
3/ Lậu nhập (nghiệp vào linh hồn của con người)

4/ Lậu hoặc (trói buộc ngăn không cho con người giải thoát)
5/ Chế ngự.

6 Tĩnh tâm

7/ giải thoát

2.3. Tam bảo:

Một nguyên tắc khác cũng là phần cốt lõi của người tu theo Kỳ Na giáo phải sống với “Tam bảo”, tức là thực hiện đúng đắn ba nguyên tắc, để không đi quá xa với nền tảng giáo lý:

1/ Niềm tin không thay đổi.
2/ Tri thức phải hiểu biết sâu sắc.
3/ Ðức hạnh phải rạng ngời.

IV. KẾT LUẬN:

Những người được ca tụng và thường là những kẻ phiêu lưu trong lĩnh vực tư tưởng không còn thỏa mãn với những bài kinh Vệ đà thiêng liêng cũng như những việc thờ cúng của đạo Bà la môn nữa. Giáo chủ Rishabhacủa Kỳ-na-giáo là một trong những chủ trương đó. Họ đi tìm thứ kinh nghiệm huyền bí nằm ngoài những hình thức cổ truyền. Tôn giáo Veda cổ được những người chủng tộc Indo-Aryens đưa vào Ấn Độ từ hàng nghìn năm trước thật ra đã thoái hóa và máy móc. Những tu sỹ Bà la môn giáo, phải mất tới ba chục năm để nhớ thuộc lòng những bản kinh thiêng bằng một ngôn ngữ đã chết, từ đó tạo nên một bức màng huyền bí thái quá trong những nghi lễ. Vì chỉ có một bộ phận tăng lữ tiên tiến trong xã hội mới được tham gia. Từ nguyên nhân sâu xa đó mọi giai cấp khác trong xã hội bắt đầu ở trạng thái ấp ủ tư duy và giải tỏa những vướn mắc tự chính mình chứ không còn mong đợi từ thánh điển Veda và tăng lữ. Trong thời điểm đó sự xuất hiện của Giáo chủ Rishabhanhư có một luồn gió mới thổi vào tâm trí một học thuyết mở được nhiều tầng lớp quan tâm:

* Đề cập chuyện tái sinh, chủ trương linh hồn của cá thể vẫn tồn tại sau khi chết để tái sinh dưới một dạng mới (người, súc vật, thần thánh hoặc ngạ quỷ) cho tới khi đủ một số lần nhất định. Cái vòng luân hồi đó không thể xê dịch và ai cũng phải tái sinh làm thân phận nghèo khổ hay xúc vật cho dù đó vị là Bà-la-môn.

* Bất cứ ai cũng có thể tiếp cận việc tái sinh qua hai con đường:

1/ Làm người sống khổ hạnh hoặc trở thành tu sỹ hành khất.

2/ Chấm dứt mọi sự ràng buộc người tu sĩ phải hoàn toàn trần truồng, sống ẩn dật hoặc tập hợp thành những nhóm nhỏ ở trong rừng.

Con đường khổ hạnh phải chấp nhận mọi luật lệ hà khắc, thông qua sự hành xác, để đạt được một quyền năng tâm linh huyền bí. Và con đường dẫn đến kết quả đó cần phải có những yếu tố căn bản của nội tại và ngoại tại:

* Không chấp nhận hệ thống giai cấp của Veda.
* Chủ trương bất hại, hoà bình.

* Chủ trương hoàn toàn vô thần, khái niệm về thượng đế hoàn toàn không có chỗ đứng trong Kỳ-na giáo.

* Trọng tâm giáo lý là kham nhẫn tuyệt đối trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành.

* Khẳng định rằng nghiệp là những vật chất vi tế (subtle material objects) gắn liền với linh hồn như bóng với hình không thể tách rời nhau. Con người muốn thoát khỏi luân hồi phải tu tập khổ hạnh và muốn hiểu rõ về vũ trụ thì không thể lấy cái hiểu biết hữu hạn của trí não để nhật thức cái vô hạn mà chỉ có thiền định mới đem lại ánh sáng hiểu biết đó.

27/10/2009

SÁCH THAM KHẢO

1/ Michael Jordan.-Dịch giả: Phan Quang Định. Minh Triết Đông Phương.Nhà xuất bản: Nxb Mỹ thuật, 2004.

2/ Lâm Thanh Huyền. Triết Học Và Thiền Học Phương Đông - Giai Thoại Thiền Sư. Nxb Lao động, 2007.

3/ Dan Ariely, Phi Lý Trí - Khám Phá Những Động Lực Vô Hình Ẩn Sau Những Quyết Định Của Con Người.Nxb Lao động Xã hội, 2009.

4/ Tony Buzan.-Dịch giả: Nguyễn Thế Anh. Lập Bản Đồ Tư Duy - Công Cụ Tư Duy Tối Ưu Sẽ Làm Thay Đổi Cuộc Sống Của Bạn. Nxb Lao động Xã hội. 2008.

5/ Trịnh Xuân Thuận. Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1. Nhà xuất bản: Nxb Trẻ. 2008.

6/ Nhiều người dịch. Albert Einstein Và Sự Tiến Triển Của Vật Lý Học Hiện Đại. Nxb KHKT, 2006.

Trịnh Xuân Thuận. Cái Vô Hạn Trong Lòng Bàn Tay(Từ Big Bang Đến Giác Ngộ) Nxb Trẻ. 2007.

7/NguyễnƯớc. Đại Cương Triết Học Đông Phương. Xuất bản. 2009.

http://www.censusindia.gov.in/Census_Data_2001. truy cập ngày 26.10.2009.

8/ Doãn Chính, các trường phái triết học Ấn Ðộ, NXB Ðại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002, dịch từ bản tiếng Anh của J.L. Jaini, Sacred Books of the Jaina (Arrah, India: The Central Jaina Publishing House, 1920).

9/ http://www.daophatngaynay.com (truy cập ngày 26.10.2009)

10/ http://www.thuvienhoasen.org. (truy cập ngày 27.10.2009)


[1] · Rig Veda: thi tụng cái biết, bao gồm gần mười quyển, với 1028 tụng ca mà bài cổ nhất có từ thế kỷ 15 trước Công nguyên và những bài gần nhất cũng khoảng thế kỷ thứ 10 trước Công nguyên. Những vị thần được ca tụng nhiều nhất là Indra, Varuna và Agni.

· Sama Veda: ca vịnh thần chú, gồm 585 khổ thơ, tương ứng với các giai điệu được dùng trong những tụng ca hiến tế (hymmes des sacrifices).

· Yayur Veda: là một chuỗi các công thức hàm chứa những nghi lễ khác nhau: dâng lễ trăng tròn, trăng mới, dâng cúng các vong nhân, dâng thần lửa, dâng bốn mùa..

· Atharva Veda: triển khai ý nghĩa ba bộ kinh kia - gồm các bài thuyết giáo, có nội dung thiết thực và triết học. Các bài thuyết giáo chứa đựng thông điệp tâm linh căn bản của Ấn Độ giáo

[2] Áo nghĩa thư(zh. 奧義書, sa. upaniṣad), “kinh điển với ý nghĩa uyên áo”, là một loại văn bản được xem là thánh điển rất quan trọng của Ấn Độ giáo với nội dung giải thích, diễn giảng bốn bộ Veda vốn ẩn chứa tính chất bí ẩn nên upaniṣadđược xem đỉnh cao của trí tuệ.

[3] Phậtlà chữ viết tắt của Phật-đà(zh. 佛陀), đây là danh hiệu phiên âm từ tiếng Phạn hoặc Pali buddha(bo. sangs rgyasསངས་རྒྱས་) sang Hán-Việt; dịch ý là Giác giả(zh. 覺者), tức “Người tỉnh thức”. Một cách gọi khác là Bụt(đọc Nôm chữ 孛 hoặc 侼).

[4] Bhagavad Gitalà một văn bản cổ bằng tiếng Phạn bao gồm 700 câu của bộ trường ca Mahabharata. Những câu này, sử dụng dạng thơ mỗi câu có năm âm tiết với nhiều so sánh và ẩn dụ, mang nhiều tính thơ ca. Bhagavad Gita cũng được gọi là Gītopaniṣad, ngụ ý là nó là một “Upanishad”. Về mặt học thuật nó được xem kiến thức được tiết lộ(bởi Đấng tối cao).

[5] Sự sống có thể tồn tại trên vệ tinh sao Mộc. Trong mấy thập kỷ qua nhân loại chưa tìm ra bất kỳ bằng chứng đáng thuyết phục nào chứng tỏ sự sống tồn tại bên ngoài trái đất, song từ lâu giới khoa học đã coi Europa - thiên thể bay quanh sao Mộc - là nơi lý tưởng để tìm kiếm hoạt động sinh học. Bề mặt trẻ và rất mịn của Europa khiến các nhà khoa học tin rằng có một đại dương ngầm nằm bên dưới lớp ngoài cùng của nó. (truy cập ngày 26/10/2009) http://vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2009/10/3BA14EC3/

[6] 1/ Thẩm quyền của các kinh Veda (sách thánh);

2/ Giá trị của các lễ tế được cử hành đúng nghi thức và do bởi đẳng cấp tư tế Bà la môn.

3/ Ðức tin của Ấn giáo chính thống cũng đặt trên hai cơ sở:

4/ Thực tại hằng cửu của Thượng đế (Brahman), có thể hiểu khái quát như là Ðại ngã, trong các dạng thức muôn hình muôn vẻ của thực tại tối hậu ấy;

5/ Linh hồn của con người (Atman), có thể hiểu khái quát là Tiểu ngã, cái tối hậu sẽ hòa nhập vào Ðại ngã.

[7] Vị tổ thứ 24, Mahavira, là một nhân vật lịch sử, sống cùng thời đại với Ðức Phật vào cuối thế kỷ 6 tới đầu thế kỷ 5 trước CN.

[8] Hiện nay thuộc tiểu bang Bihar, miền Đông nước Ấn độ.

----o0o----

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/06/2023(Xem: 2866)
Đọc một quảng cáo trên mục rao vặt “vị trí tuyển dụng” của tờ báo The Star. Danh sách này là từ Cư sĩ lâm Thiên bách Phật giáo (Chempaka BudChempaka Buddhist Lodge, 千百家佛教居士林) ở Petaling Jaya, thành phố ở bang Selangor, Malaysia. Các cơ hội việc làm cho các tu sĩ Phật giáo ở Đông Nam Á là phổ biến và xuất hiện cùng với các cơ hội việc làm thế tục như nhân viên bán hàng
19/05/2023(Xem: 3105)
Tôi đã rất ấn tượng bởi một số chủ đề trùng lặp mà tôi gặp phải từ một số tác giả rất khác nhau. Cụ thể tôi đã thưởng ngoạn tác phẩm “Sapiens: Lược Sử Loài Người” (קיצור תולדות האנושות‎, Ḳitsur toldot ha-enoshut) của Tác giả, Thiền giả, Giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem, Cư sĩ Yuval Noah Harari, một tác phẩm nói bao quát về lịch sử tiến hóa của loài người từ thời cổ xưa trong thời kỳ đồ đá cho đến thế kỷ XXI, tập trung vào loài "Người tinh khôn" (Homo sapiens). Được ghi chép lại với khuôn khổ được cung cấp bởi các ngành khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh học tiến hóa.
19/05/2023(Xem: 4470)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV, nhà lãnh đạo tinh thần của Phật giáo Tây Tạng đã kêu gọi đạo Phật ở thế kỷ 21, với sự nhấn mạnh không phải vào nghi lễ, cầu nguyện và lòng sùng mộ, đúng nghĩa hơn là nghiên cứu, tu học đặc biệt là các tác phẩm của 17 vị Luận sư vĩ đại thuộc Nalanda trường Đại học đầu tiên của Phật giáo. Để phù hợp với phương tiện thiện xảo của Đức Phật, nghiên cứu cần phải thích nghi với hoàn cảnh của thế kỷ 21, và phù hợp với các phương pháp truyền thống của Thời đại kỹ thuật số. Nhằm duy trì hiệu quả trong giáo dục Phật giáo, thì phải thích ứng với những nhu cầu thời đại, như nó đã luôn thực hành trong quá khứ. Đặc biệt là để tiếp tục truyền thống vĩ đại của giáo dục Phật giáo Nalanda, cần phải đáp ứng với các phương pháp giáo dục hiện đại, để cung cấp cho các thế hệ trẻ khả năng tiếp cận. Tôi xin dẫn chứng một số bối cảnh lịch sử để chứng minh rằng việc thích nghi với thời đại là phù hợp với truyền thống đạo Phật.
17/05/2023(Xem: 4555)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là trụ trì, trở nên vô cùng ngã mạn có những hành động, cử chỉ, lời nói khinh mạn tín đồ và tự cho mình đã chứng đắc có khi còn hơn cả Phật. Câu hỏi đặt ra là: Là trụ trì, hoặc thuyết pháp có cả triệu tín đồ đi theo, phát hành cả trăm băng đĩa, như thế đã là Phật chưa?
16/05/2023(Xem: 3340)
Được sự tài trợ bởi Quỹ Từ thiện Glorisun, Hội thảo này được điều hành bởi Mạng lưới Nghiên cứu Toàn cầu Glorisun (https://glorisunglobalnetwork.org) và FROGBEAR (www.frogbear.org) tại Đại học British Columbia, và được tổ chức bởi Đại học British Columbia. Hồng Kông. Sự kiện sẽ diễn ra từ ngày 09-12 tháng 08 năm 2023 tại Hồng Kông.
03/05/2023(Xem: 7231)
Khi Phật giáo (PG) du nhập vào Trung Hoa (TH) lần đầu tiên từ Ấn-độ và Trung Á thì những TH theo PG có khuynh hướng coi tôn giáo này là một phần hay một phái của Đạo Giáo Hoàng Lão, một hình thức Đạo Giáo bắt nguồn từ kinh sách và pháp thực hành được coi là của Hoàng Đế và Lão Tử. Những người khác chấp nhận ít hơn tôn giáo “ngoại lai” xâm nhập từ các xứ Tây Phương “man rợ” này PG là xa lạ và là một sự thách thức nguy hiểm cho trật tự xã hội và đạo đức TH, Trong mấy thế kỷ, hai thái độ này tạo thành cái nôi mà ở trong đó sự hiểu biết PG của người TH thành kính, trong khi các nhà
21/04/2023(Xem: 8340)
Thượng Tọa Thích Trí Siêu từ Pháp Quốc sẽ giảng pháp tại Úc Châu vào tháng 4 năm 2023 -- Thượng Tọa Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sài Gòn. Theo cha mẹ tỵ nạn qua Pháp năm 1975. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ cụ túc giới với Hòa Thượng Thích Huyền-Vi. Tuy xuất thân từ Đại Thừa, nhưng Thầy đã không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
20/04/2023(Xem: 9303)
Học đạo quý vô tâm Làm, nghĩ, nói không lầm Sáng trong và lặng lẽ Giản dị mới uyên thâm
15/04/2023(Xem: 2284)
Đức Phật thuyết rằng đừng vội tiếp thu những điều gì Ngài dạy, chỉ dựa vào tín ngưỡng, thay vào đó, hãy nghiệm chứng nó bằng logic học và xác thực, giống như việc kiểm nghiệm vàng
15/04/2023(Xem: 2391)
Chuyên mục khám phá những điểm tương đồng giữa kim ngôn khẩu ngọc giáo huấn của Đức Phật và các khía cạnh khác nhau của công nghệ đương đại là Nguyệt san thảo luận về lĩnh vực hệ thống – thường được gọi là Tư duy hệ thống ‘khía cạnh lý thuyết’ (cách nhìn tổng thể, có tính đa chiều và mục tiêu) và Kỹ thuật hệ thống ‘khía cạnh phát triển thực tế’
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567