Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 6: Triết học Jain

08/04/201319:35(Xem: 5685)
Bài 6: Triết học Jain

Bài 06: Triết học Jain

Jainism- Kỳ-na giáo là một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda.

A. Đạo Jain

I. Bối cảnh và xuất xứ:

Theo dòng thời gian tư tưởng triết học của người Ấn được phân chia theo: 1.500 TCN là giai đoạn thống trị của Vệ Đà[1], Áo nghĩa thư[2]và sau đó 1000 năm là thời kỳ phán giáo của các hệ thống triết học chánh thống giáo nổi bậc là đạo Jaina, đạo Phật[3], và học thuyết Bhagavad Gita[4]được phát triển cho đến ngày nay. Điều đó cho thấy dòng lịch sử của người Ấn đã phát triển tư tưởng đến đỉnh cao, nhằm đáp ứng cho sự khát vọng của con người muốn có một câu trả lời thỏa đáng là con người từ đâu mà có và vũ trụ này hữu hạn hay vô hạn? Câu hỏi đó cho đến thời đại chúng ta đang còn là một thách thức[5], vậy chúng ta thử tìm đến cách giải quyết của Đạo Jain ra sao khi đã có mặt từ thời cổ đại được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda, và trải qua 24 đời truyền thừa những vị ấy được gọi là các tirthankara-người lội qua chỗ cạn. Sở dĩ có danh xưng ấy vì họ đã giúp cho các đệ tử, những người đi theo đạo lý, vượt qua bến bờ đau khổ luân hồi của thế gian và đạt đượt giác ngộ. Đỉnh điểm của học thuyết đó đã phát triển rực rỡ cùng thời với đức Phật.

II. Những nét tiêu biểu của Jainism:

Jainism- Kỳ-na giáo là một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda. Nhưng học thuyết đó đã thoát thai và mang dáng dấp của nền Văn minh lưu vực Ấn hà. Kỳ-na giáo phát triển như một hệ quả tất yếu bởi cái bóng quá lớn của Veda che khuất mọi ý tưởng tự do của con người: từ chủ trương tế lễ, mọi sinh hoạt đời sống và ngay cả tính thẩm quyền trong giáo lý của Veda[6]. Vì vậy, sự thay đổi của họ với nhận thức phát triển, tư duy phóng khoảng của nền văn minh giúp họ tạo nên một lối đi mới là nhu cầu ắt có và đủ. Sự khai phóng của họ mang chút dáng vẻ những kẻ phiêu lưu trong lĩnh vực tư tưởng, chính bước đột phá đó đã được nhiều người ủng hộ với chủ trương bất bạo động mọi hình thức, sống trong kham nhẫn tuyệt đối trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành.

Vì vậy khi phân tích Thuật ngữ chúng ta sẽ thấy chữ Jainism có thành tố là “ji” có nghĩa là chinh phục được khát vọng, hay chinh phục những ràng buộc. “Jinacó nghĩa là người chinh phục tất cả kẻ thù nội tại và bất tịnh của tinh thần. Cho nên biểu tượng thành công của các vị Thánh là những con người bình thường đã dùng nhiều phương pháp tu tập để vượt qua khỏi sự ràng buộc của cuộc đời, khổ đau về thể xác và tinh thân, để đạt được giải thoát. Vị thánh đầu tiên là Rishabha truyền thừa đến 24 đời và vị cuối cùng được tôn kính nhất là Mahāvira[7](Đại Hùng), ngài thuộc dòng họ Sát-đế-lợi ở Vaiśālī[8]. Trong nền tảng đạo lý lại phát sinh ra hai trường phái dường như mâu thuẩn và đối lập, nhưng sự tương phản đó lại là sự hỗ trợ cho nhau cùng tồn tại và phát triển. Trường phái śvetāmbarascho phép tu sĩ mặc y phục màu trắng (white-clothed). Thánh địa của trường phái nằm ở Gujarat miền Tây bắc và miền Tây Rājputāna về sau đã phát triển đến miền Trung và miền Bắc Ấn Độ.

Cũng từ một học thuyết của Kỳ-na-giáo nhưng trường phái Digambarascấm không cho mặc y phục, nên một số tôn giáo khác gọi tên biếm nhẽ là Phái lõa thể (space-clothed) khi tiếp xúc với trường phái Digambaras. Trường phái này cho phép người nữ xuất gia, nhưng chỉ được ở trong tu viện không được ra ngoài khất thực như những nam tu.

III. Giáo điều của Kỳ-na-giáo:

Những người nhận ra được chân lý, muốn theo giáo đoàn làm tu sĩ phải thực hành 22 điều khổ hạnh như: kềm chế cơn đói, khát, chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết nóng, lạnh, chấp nhận môi trường thiên nhiên cho muỗi đốt, ruồi bu, đối với cơ thể khống chế sự khát vọng về quyền lực, danh vọng, thù ghét, yêu thương và chối bỏ hoàn toàn nhục dục … và với tư tưởng:

** Bất hại là quan điểm giáo lý quan trọng của Kỳ-na giáo. Bất hại bắt nguồn từ tư tưởng, sau đó được bày tỏ qua lời nói và cuối cùng là hành động cho nên Tu sĩ phải luôn ghi nhớ về các qui định sau:

1/ Cẩn trọng trong ngôn từ.
2/ Cẩn trọng trong suy tư.
3/ Thận trọng khi đi đứng.
4/ Tập trung khi nâng vật lên hoặc để vật xuống.
5/ Khi ăn uống, phải quan sát thức ăn và nước uống.

6/ Từ bỏ tất cả những sở hữu thế tục.
7/ Để cho ngũ giác quan thỏa mãn là một tội lỗi.

8/ Mỗi năm ẩn cư 3 tháng mùa mưa.

9/ Chấp nhận thức ăn từ sự hỷ cúng của thế gian.

10/ Mặc đồ khác biệt với xã hội.

11/ Ăn chay tuyệt đối.

Những qui định cho người cho tại gia có 5 điều:

1/ Không tổn hại mạng sống hữu tình (ahiṃsa)
2/ Không nói dối (satya)
3/ Không trộm cắp (asteya)
4/ Không tà dâm (brahmacarya)
5/ Hạn chế tham đắm các sở hữu thế tục (aparigraha)

Lời khuyên thứ năm của giáo điều còn mang thông điệp đến các tín đồ, không nên để thân xác và tâm lý bị lôi cuốn, trói buộc vào thế giới vật dục, do giác quan mang lại những khoái cảm thì cũng bị xem là tội lỗi.

B. Triết học Jain

IV. Tôn chỉ Kỳ-na giáo:

1/Đạo đức học:

* Bất hại là giao lý trọng tâm của quan điểm Kỳ-na giáo. Được nhận thức qua tư tưởng, sau đó được bày tỏ qua lời nói và cuối cùng là hành động.

* Bác bỏ các nghi lễ Bà la môn như là phương thế để thành tựu giải thoát, từ việc cử hành chính xác các nghi lễ.

* Phủ định sự hiện hữu của cảnh giới thiêng liêng vĩnh cửu, ngài tin rằng linh hồn của con người bị mắc kẹt trong thế giới vật chất, cần được giải thoát nhằm thành tựu sự toàn mỹ.

* Biến giới luật bất hại (ahimsa) thành tâm điểm tuyệt đối của triết học và đạo đức học thực hành.

* Kỳ Na giáo mang tính vô thần chủ nghĩa. Hoàn toàn khác với Ấn giáo, Kỳ Na giáo không có những cái tuyệt đối, không có sự hiệp nhất sau cùng của Tiểu ngã Atman vào Ðại ngã Brahman hằng cửu. Thay vào đó, Kỳ Na giáo cho rằng giải thoát sau cùng là sự thừa nhận rằng tinh thần của ta mới là một thực tại tối hậu.

* Chính nghiệp báo lèo lái vũ trụ, chứ chẳng phải một thần linh nào cả. Thế giới không có khởi đầu nhưng được xem là đang chuyển động qua các thời kỳ tiến hóa và thoái hóa.

* Khi linh hồn được giải thoát, ở đó chỉ còn lại niềm tin, tri thức, đức hạnh và mọi trạng thái chân chính hoàn hảo. Khi hết thảy các nghiệp báo ràng buộc đều bị loại bỏ, linh hồn vút bay lên tới bến bờ không gian vũ trụ.

2/ Thánh điển:

2.1. Bốn nguyên lý đưa đến tuệ giác:
a) Công đức của tôn giáo (dharma)
b) Thịnh vượng (artha)
c) An lạc (kāma)
d) Giải thoát (mokṣa)

2.2. Thất đế:

Muốn chế ngự bản thân, phải có phương pháp tự kiềm chế các loại ham muốn và dục vọng. Phương pháp tích cực thuộc về sự chỉ dẫn theo nguyên tắc mà các vị tổ đã trải qua, có như vậy mới hướng được đạo tâm phát triển.

1/ Mạng

2/ phi mạng (linh hồn và phi linh hồn)
3/ Lậu nhập (nghiệp vào linh hồn của con người)

4/ Lậu hoặc (trói buộc ngăn không cho con người giải thoát)
5/ Chế ngự.

6 Tĩnh tâm

7/ giải thoát

2.3. Tam bảo:

Một nguyên tắc khác cũng là phần cốt lõi của người tu theo Kỳ Na giáo phải sống với “Tam bảo”, tức là thực hiện đúng đắn ba nguyên tắc, để không đi quá xa với nền tảng giáo lý:

1/ Niềm tin không thay đổi.
2/ Tri thức phải hiểu biết sâu sắc.
3/ Ðức hạnh phải rạng ngời.

IV. KẾT LUẬN:

Những người được ca tụng và thường là những kẻ phiêu lưu trong lĩnh vực tư tưởng không còn thỏa mãn với những bài kinh Vệ đà thiêng liêng cũng như những việc thờ cúng của đạo Bà la môn nữa. Giáo chủ Rishabhacủa Kỳ-na-giáo là một trong những chủ trương đó. Họ đi tìm thứ kinh nghiệm huyền bí nằm ngoài những hình thức cổ truyền. Tôn giáo Veda cổ được những người chủng tộc Indo-Aryens đưa vào Ấn Độ từ hàng nghìn năm trước thật ra đã thoái hóa và máy móc. Những tu sỹ Bà la môn giáo, phải mất tới ba chục năm để nhớ thuộc lòng những bản kinh thiêng bằng một ngôn ngữ đã chết, từ đó tạo nên một bức màng huyền bí thái quá trong những nghi lễ. Vì chỉ có một bộ phận tăng lữ tiên tiến trong xã hội mới được tham gia. Từ nguyên nhân sâu xa đó mọi giai cấp khác trong xã hội bắt đầu ở trạng thái ấp ủ tư duy và giải tỏa những vướn mắc tự chính mình chứ không còn mong đợi từ thánh điển Veda và tăng lữ. Trong thời điểm đó sự xuất hiện của Giáo chủ Rishabhanhư có một luồn gió mới thổi vào tâm trí một học thuyết mở được nhiều tầng lớp quan tâm:

* Đề cập chuyện tái sinh, chủ trương linh hồn của cá thể vẫn tồn tại sau khi chết để tái sinh dưới một dạng mới (người, súc vật, thần thánh hoặc ngạ quỷ) cho tới khi đủ một số lần nhất định. Cái vòng luân hồi đó không thể xê dịch và ai cũng phải tái sinh làm thân phận nghèo khổ hay xúc vật cho dù đó vị là Bà-la-môn.

* Bất cứ ai cũng có thể tiếp cận việc tái sinh qua hai con đường:

1/ Làm người sống khổ hạnh hoặc trở thành tu sỹ hành khất.

2/ Chấm dứt mọi sự ràng buộc người tu sĩ phải hoàn toàn trần truồng, sống ẩn dật hoặc tập hợp thành những nhóm nhỏ ở trong rừng.

Con đường khổ hạnh phải chấp nhận mọi luật lệ hà khắc, thông qua sự hành xác, để đạt được một quyền năng tâm linh huyền bí. Và con đường dẫn đến kết quả đó cần phải có những yếu tố căn bản của nội tại và ngoại tại:

* Không chấp nhận hệ thống giai cấp của Veda.
* Chủ trương bất hại, hoà bình.

* Chủ trương hoàn toàn vô thần, khái niệm về thượng đế hoàn toàn không có chỗ đứng trong Kỳ-na giáo.

* Trọng tâm giáo lý là kham nhẫn tuyệt đối trên cả hai phương diện lý thuyết và thực hành.

* Khẳng định rằng nghiệp là những vật chất vi tế (subtle material objects) gắn liền với linh hồn như bóng với hình không thể tách rời nhau. Con người muốn thoát khỏi luân hồi phải tu tập khổ hạnh và muốn hiểu rõ về vũ trụ thì không thể lấy cái hiểu biết hữu hạn của trí não để nhật thức cái vô hạn mà chỉ có thiền định mới đem lại ánh sáng hiểu biết đó.

27/10/2009

SÁCH THAM KHẢO

1/ Michael Jordan.-Dịch giả: Phan Quang Định. Minh Triết Đông Phương.Nhà xuất bản: Nxb Mỹ thuật, 2004.

2/ Lâm Thanh Huyền. Triết Học Và Thiền Học Phương Đông - Giai Thoại Thiền Sư. Nxb Lao động, 2007.

3/ Dan Ariely, Phi Lý Trí - Khám Phá Những Động Lực Vô Hình Ẩn Sau Những Quyết Định Của Con Người.Nxb Lao động Xã hội, 2009.

4/ Tony Buzan.-Dịch giả: Nguyễn Thế Anh. Lập Bản Đồ Tư Duy - Công Cụ Tư Duy Tối Ưu Sẽ Làm Thay Đổi Cuộc Sống Của Bạn. Nxb Lao động Xã hội. 2008.

5/ Trịnh Xuân Thuận. Những Con Đường Của Ánh Sáng - Tập 1. Nhà xuất bản: Nxb Trẻ. 2008.

6/ Nhiều người dịch. Albert Einstein Và Sự Tiến Triển Của Vật Lý Học Hiện Đại. Nxb KHKT, 2006.

Trịnh Xuân Thuận. Cái Vô Hạn Trong Lòng Bàn Tay(Từ Big Bang Đến Giác Ngộ) Nxb Trẻ. 2007.

7/NguyễnƯớc. Đại Cương Triết Học Đông Phương. Xuất bản. 2009.

http://www.censusindia.gov.in/Census_Data_2001. truy cập ngày 26.10.2009.

8/ Doãn Chính, các trường phái triết học Ấn Ðộ, NXB Ðại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002, dịch từ bản tiếng Anh của J.L. Jaini, Sacred Books of the Jaina (Arrah, India: The Central Jaina Publishing House, 1920).

9/ http://www.daophatngaynay.com (truy cập ngày 26.10.2009)

10/ http://www.thuvienhoasen.org. (truy cập ngày 27.10.2009)


[1] · Rig Veda: thi tụng cái biết, bao gồm gần mười quyển, với 1028 tụng ca mà bài cổ nhất có từ thế kỷ 15 trước Công nguyên và những bài gần nhất cũng khoảng thế kỷ thứ 10 trước Công nguyên. Những vị thần được ca tụng nhiều nhất là Indra, Varuna và Agni.

· Sama Veda: ca vịnh thần chú, gồm 585 khổ thơ, tương ứng với các giai điệu được dùng trong những tụng ca hiến tế (hymmes des sacrifices).

· Yayur Veda: là một chuỗi các công thức hàm chứa những nghi lễ khác nhau: dâng lễ trăng tròn, trăng mới, dâng cúng các vong nhân, dâng thần lửa, dâng bốn mùa..

· Atharva Veda: triển khai ý nghĩa ba bộ kinh kia - gồm các bài thuyết giáo, có nội dung thiết thực và triết học. Các bài thuyết giáo chứa đựng thông điệp tâm linh căn bản của Ấn Độ giáo

[2] Áo nghĩa thư(zh. 奧義書, sa. upaniṣad), “kinh điển với ý nghĩa uyên áo”, là một loại văn bản được xem là thánh điển rất quan trọng của Ấn Độ giáo với nội dung giải thích, diễn giảng bốn bộ Veda vốn ẩn chứa tính chất bí ẩn nên upaniṣadđược xem đỉnh cao của trí tuệ.

[3] Phậtlà chữ viết tắt của Phật-đà(zh. 佛陀), đây là danh hiệu phiên âm từ tiếng Phạn hoặc Pali buddha(bo. sangs rgyasསངས་རྒྱས་) sang Hán-Việt; dịch ý là Giác giả(zh. 覺者), tức “Người tỉnh thức”. Một cách gọi khác là Bụt(đọc Nôm chữ 孛 hoặc 侼).

[4] Bhagavad Gitalà một văn bản cổ bằng tiếng Phạn bao gồm 700 câu của bộ trường ca Mahabharata. Những câu này, sử dụng dạng thơ mỗi câu có năm âm tiết với nhiều so sánh và ẩn dụ, mang nhiều tính thơ ca. Bhagavad Gita cũng được gọi là Gītopaniṣad, ngụ ý là nó là một “Upanishad”. Về mặt học thuật nó được xem kiến thức được tiết lộ(bởi Đấng tối cao).

[5] Sự sống có thể tồn tại trên vệ tinh sao Mộc. Trong mấy thập kỷ qua nhân loại chưa tìm ra bất kỳ bằng chứng đáng thuyết phục nào chứng tỏ sự sống tồn tại bên ngoài trái đất, song từ lâu giới khoa học đã coi Europa - thiên thể bay quanh sao Mộc - là nơi lý tưởng để tìm kiếm hoạt động sinh học. Bề mặt trẻ và rất mịn của Europa khiến các nhà khoa học tin rằng có một đại dương ngầm nằm bên dưới lớp ngoài cùng của nó. (truy cập ngày 26/10/2009) http://vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2009/10/3BA14EC3/

[6] 1/ Thẩm quyền của các kinh Veda (sách thánh);

2/ Giá trị của các lễ tế được cử hành đúng nghi thức và do bởi đẳng cấp tư tế Bà la môn.

3/ Ðức tin của Ấn giáo chính thống cũng đặt trên hai cơ sở:

4/ Thực tại hằng cửu của Thượng đế (Brahman), có thể hiểu khái quát như là Ðại ngã, trong các dạng thức muôn hình muôn vẻ của thực tại tối hậu ấy;

5/ Linh hồn của con người (Atman), có thể hiểu khái quát là Tiểu ngã, cái tối hậu sẽ hòa nhập vào Ðại ngã.

[7] Vị tổ thứ 24, Mahavira, là một nhân vật lịch sử, sống cùng thời đại với Ðức Phật vào cuối thế kỷ 6 tới đầu thế kỷ 5 trước CN.

[8] Hiện nay thuộc tiểu bang Bihar, miền Đông nước Ấn độ.

----o0o----

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/02/2024(Xem: 827)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 1532)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 821)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 930)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 1494)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 4079)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 10143)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
12/12/2023(Xem: 4624)
Chánh Pháp và Hạnh Phúc (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
23/10/2023(Xem: 1781)
Lần đầu tiên, mạt nhân được biết tên tuổi của Ngài là vào năm 1986. Trong một lần đến chùa Dược Sư (quận Bình Thạnh) thỉnh kinh, lục lạo trong đống kinh sách cũ, vô tình mạt nhân tìm được cuốn A Di Đà Kinh Giảng Ký của pháp sư Thích Diễn Bồi. Giở xem thấy văn phong khá giản dị, đủ để một người vốn liếng chữ Hán nhấp nhem như mạt nhân khi đó hiểu được dễ dàng ý tác giả qua vài trang sách đầu tiên. Thế là với bản giảng kinh ấy, mạt nhân có dịp tập tành luyện đọc văn Bạch Thoại. Càng đọc càng thấy những lời giải thích của Ngài tuy giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn thâm trầm, hàm súc, có thể nói không quá đáng là lời giảng của Ngài rất lợi lạc cho mọi tầng lớp người đọc, nhất là hạng hành nhân sơ cơ. Từ nhân duyên đặc biệt ấy, mạt nhân tâm nguyện bất cứ khi nào mình có được một bản giảng kinh nào của Ngài, sẽ cố gắng dịch sang tiếng Việt.
08/06/2023(Xem: 2571)
Trong môi trường văn hóa xã hội của chính chúng ta, thay vì chỉ đổ lỗi cho người khác - đi đến một kết luận chung, có lẽ rất đáng bị đổ lỗi, chúng ta nên cùng nhau, với tư cách là đa số im lặng, đó là nếu mỗi người chúng ta làm việc một cách độc lập và riêng lẻ để phát triển những điều lành mạnh, nội tại, văn hóa tinh thần (Pali: citta-bhavana) của chính chúng ta và của toàn xã hội, và cuối cùng tập thể có thể trở nên được cải thiện đáng kể, đồng thời dựa trên cơ sở củng cố đạo đức và thực thi pháp luật và trật tự.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567