Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19-Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

28/01/201109:41(Xem: 10550)
19-Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Bồ-tátsợnhân chúng sanh sợ quả

Là conngười ai cũng sợ khổ cầu vui, song người mê chỉ biếtsợ quả khổ cầu quả vui. Ngược lại người tỉnh chỉsợ nhân khổ, tạo nhân vui. Hai bên có cái nhìn khác nhau,bên nào sẽ đạt được như sở nguyện? Dù ngây thơ thếmấy, người ta vẫn biết, không tạo nhân lành mà cầu quảtốt là chuyện không đâu; sợ quả khổ mà cứ tạo nhânác là việc khó tránh. Nhân ác không gây, dù chẳng sợ quảkhổ, nó vẫn không đến; nhân lành cứ tạo, dù chẳng cầuquả vui, nó vẫn bò sang. Cho nên người trí nhìn từ cái nhânmà chọn lựa, chọn nhân lành bỏ nhân ác. Cả đời mãi gâytạo nhân lành, loại trừ nhân ác, người này bảo đảm gặthái những kết quả đẹp đẽ an vui. Ai say sưa tạo nhân ác,chẳng bao giờ nghĩ tới nhân lành, chắc chắn sẽ thu lượmđược muôn vàn đau khổ, dù họ sợ sệt khẩn cầu quảấy đừng đến. Cho nên câu châm ngôn nhà Phật, ít Phậttử nào không thuộc, là "Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợquả".

NGHĨABỒ-TÁTVÀ CHÚNG SANH

Bồ-tát(Bodhisavattu) là người giác ngộ, thấy tận cái manh nha cáiđầu mối của sự khổ đau và an lạc. Muốn hết khổ đượcvui, không gì hơn ngay cái mầm đau khổ chúng ta đừng gieo,cái mầm an vui phải tung vãi. Không gieo nhân khổ thì quảkhổ làm gì có. Cứ tung vãi nhân vui thì quả vui không vờicũng đến. Ðây là hành động của người giác ngộ. Chúngsanh là những kẻ mê, chỉ nhìn trên cái quả mà sợ mà cầu.Luôn luôn sợ khổ cầu vui, mà nhân đau khổ không tránh, nhânan vui không tạo. Một khi quả đau khổ đến thì cầu khẩnvan xin, song làm sao qua khỏi, vì đã hình thành. Cầu mong mơước quả an vui, nhưng nhân không gây thì quả từ đâu màđến. Ðây là hình ảnh trái ngược của kẻ mê người giác.Tuy nhiên, cái mê này ai cũng có thể bỏ, cái giác này ai cũngcó thể làm. Chỉ là nhắm vào nhân là giác, ai không thểlàm được việc đó. Thế nên, Bồ-tát là chuyện tất cảchúng ta có thể làm được và chúng sanh chúng ta cũng bỏđược.

BỒ-TÁTSỢ NHÂN

Bồ-tátlà con người giác ngộ và hay làm giác ngộ người khác. Bởigiác ngộ nên thấy rõ cái gì là nhân đau khổ liền sợ hãitìm mọi cách để diệt trừ. Thấy tham lam và keo kiệt lànhân đau khổ, Bồ-tát tu bố thí để tiêu diệt nên nói bốthí độ san tham. Thấy buông lung ngạo mạn là nhân phá hoạiđức hạnh, Bồ-tát tu trì giới để khử dẹp, nên nói trìgiới độ phá giới. Thấy nóng giận là nhân gây nhiều tộilỗi. Bồ-tát tu nhẫn nhục để dẹp, nên nói, nhẫn nhụcđộ sân hận. Thấy lười biếng bê tha là nhân hư thân mấtcông đức, Bồ-tát tu tinh tấn để đánh đuổi, nên nói tinhtấn độ giải đãi. Thấy tâm tán loạn là nhân điên đảotối tăm, Bồ-tát tu thiền định để thu nhiếp, nên nói thiềnđịnh độ tán loạn. Thấy ngu si là nhân trầm luân sanh tử,Bồ-tát tu trí tuệ để chiếu phá, nên nói trí tuệ độngu si.

Sởdĩ Bồ-tát tu lục độ là để diệt trừ sáu cái nhân xấuxa tội lỗi mù tối hiểm nguy, dẫn con người đi mãi trongtrầm luân đau khổ. Khi sáu cái nhân ấy bị tiêu diệt hoàntoàn là giác ngộ giải thoát. Giai đoạn tu lục độ là đanghành hạnh Bồ-tát, đến khi giác ngộ là Bồ-tát thật sự.Phần này là tu hạnh Bồ-tát nặng về tự giác.

CHÚNGSANH SỢ QUẢ

Chúngsanh là những con người mê muội, một bề sợ khổ mà khôngbiết nguyên nhân. Thấy cái gì khổ đau đến là kinh hoàngkhiếp sợ van xin cầu cứu, mà không biết cái khổ ấy xuấtphát từ nguyên nhân nào. Khi cái khổ qua rồi, thì bình thảnnhư thường không biết gì tu sửa. Những cái quả chúng sanhsợ nhất là:

Sợngười khác giết hại mình, mà tâm giết hại người khôngbỏ. Còn ôm mưu đồ giết hại người thì quả người giếthại mình làm sao tránh khỏi. Sợ người khác lén lấy, cướpgiựt tiền bạc của cải của mình mà tâm tham lam của ngườikhông chừa. Ðã tham của người thì người tham của mìnhlà sự đương nhiên. Sợ người ta xâm phạm tiết hạnh vợcon mình, mà mình vẫn dòm ngó thèm thuồng vợ con người.Ôm lòng phá hoại sự trinh bạch của gia đình người thìngười phá hoại hạnh phúc gia đình mình khó tránh khỏi.Sợ người ta dùng lời lường gạt vu cáo mình, mà mình vẫnthích lường gạt vu cáo người. Ðã có cái nhân lường gạtvu cáo người thì quả người lường gạt vu cáo mình làmsao trốn được. Sợ say sưa như điên như dại bị ngườicười chê, mà rượu không từ không kiêng. Sẵn sàng uốngrượu thì phải chấp nhận say sưa. Ðây là những cái quảmà chúng sanh sợ hãi. Song sợ quả mà không tránh nhân, thậtlà khờ khạo ngây thơ. Ðó là nói lên tính mê muội củacon người, được gọi là chúng sanh.

BỒ-TÁTTẠO NHÂN

Ðếnphần giác tha, Bồ-tát thấy bổn phận mình phải đem sựgiác ngộ lại cho mọi người. Ðể đạt mục đích ấy, Bồ-tátphải tạo dựng cho mình đầy đủ những điều thiết yếunày: Một là Bồ-tát phải thông suốt Phật pháp (nội minh).Vì mục đích dạy người tu theo đường lối giác ngộ màkhông thông suốt giáo lý Phật thì không thể thực hiện được.Hai là Bồ-tát phải thông hết các môn tâm lý học, xã hộihọc, khoa học. (ngoại minh). Có suốt thông các môn này thìsự giáo hóa không bị chướng ngại. Ba là Bồ-tát phải biếtcác môn y dược (y phương minh). Trị cho người được lànhbệnh, chỉ dạy đạo lý cho họ rất dễ dàng, vì họ cócảm tình sẵn sàng nghe mình dạy. Bốn là Bồ-tát phải họccác nghề nghiệp thật hay thật khéo (công xảo minh). Cầngiúp đỡ mọi người, chúng ta phải có tài giỏi nghề khéo,vừa chỉ dạy dân chúng, vừa gầy được nền kinh tế tốtđẹp cho đồng bào. Nhờ tài nghệ đặc biệt của mình, ngườita mới đến cầu học, là cơ hội tốt để giáo hóa họ.Năm là Bồ-tát phải giỏi ngoại ngữ (thanh minh). Muốn tiếpxúc với nhiều hạng, nhiều giống người, cần phải biếtnhiều thứ tiếng. Biết tiếng họ, chúng ta mới dễ thôngcảm và giáo hóa họ. Tạo dựng cho mình đầy đủ năm điềukiện này, Bồ-tát mới làm tròn sự nghiệp giác tha. Chúngta không thể ôm ấp lý tưởng suông rằng "thệ nguyện giáctha", khi đó nơi mình không có một chút khả năng, một ítphương tiện thì sự giác tha trở thành vô nghĩa. Trước tiênchúng ta phải tạo dựng cho mình đầy đủ điều kiện thiếtyếu (ngũ minh), sau đó mang hành lý lên vai tiến trên đườnggiác tha, chúng ta mới làm tròn nhiệm vụ.

Tạodựng cho mình đủ năm điều kiện trên rồi, Bồ-tát cònphải ứng dụng bốn việc thì sự giáo hóa mới dễ thànhtựu: Một là Bồ-tát phải sẵn sàng giúp đỡ tiền bạccủa cải hoặc sức lực của mình khi người cần. Nhờ sựgiúp đỡ người ta dễ có cảm tình, nhiếp hóa họ mới được(bố thí nhiếp). Hai là Bồ-tát phải nói lời hòa nhã dịudàng dễ mến. dù chúng ta có giúp ai bao nhiêu, mà thốt ranhững lời thô bạo họ đều bực bội chán ghét. Khéo dùnglời hiền hòa nhu nhuyến nhiếp hóa người (ái ngữ nhiếp)là dễ thành công. Ba là Bồ-tát phải xông pha làm những điềugì để đem lợi ích thiết thực cho người. Chúng ta khôngphải chỉ nói suông, mà phải làm thật sự. Ai cần điềugì có thể làm được, chúng ta phải nỗ lực làm giúp, đểđem đến kết quả lợi ích cho họ. Nhờ bàn tay của mìnhgiúp họ thành công một việc, sau đó mình đem chánh phápgiáo hóa họ, họ dễ dàng thu nhận (lợi hành nhiếp). Bốnlà Bồ-tát phải lăn xả vào trong mọi ngành mọi nghề đểcùng làm cùng sống với họ. Dễ thông cảm nhau nhất là bạnđồng nghiệp. Ðồng trong một cảnh ngộ, có bàn luận điềugì thật là dễ cảm thông. Chính chỗ chung nghề nghiệp, chúngta đem chánh pháp giáo hóa họ được sự chấp nhận khôngkhó khăn gì (đồng sự nhiếp). Bốn điều này là phươngtiện không thể thiếu của Bồ-tát trên con đường giác tha.

CHÚNGSANH CẦU QUẢ

Chúngsanh không ưa tạo nhân tốt mà mong cầu quả tốt. Quả tốtlàm gì đến được, bởi không có nhân. Tuy thế mà họ vẫnước mơ trông đợi quả tốt. Như người ta cứ mong cho mìnhđược sống lâu mạnh khỏe, mà không chịu cứu người giúpvật. Sanh mạng của người không được tôn trọng mà muốnmọi người tôn trọng sanh mạng mình là điều không thểđược. Hoặc cầu mong mình được giàu có ai nấy đều ủnghộ mình, mà không chịu làm việc bố thí, giúp đỡ ngườilúc cùng khốn. Lại có người cầu cho gia đình mình hòa vuihạnh phúc vợ con đều trinh bạch, mà không chịu sống hạnhtrinh bạch với mọi người. Cũng có người cầu xin đừngai lừa gạt mình, mà không chịu nói lời chân thật. Quảlà muốn đi bên tây mà hướng mặt về đông. Có người cầunguyện gia đình mình sum họp thuận hòa, mà không dùng lờikhuyên can cho mọi người cùng hòa hợp. Có người cầu mongđừng ai dùng lời hung ác nói với mình, mà mình không chịudùng lời hiền hòa nói với người. Có những người muốnai cũng trình bày lẽ thật với mình, mà mình không trình bàyvới người. Có những người cầu mong đừng ai tham lam vớinhững cái có của mình, mà mình không chịu bỏ lòng tham vớinhững cái có của người. Có những người cầu xin đừngai giận hờn mình, mà mình chưa chịu hỉ xả cho người. Cónhững người cầu cho mình có trí tuệ sáng suốt, mà nhữngcố chấp tà kiến không chịu bỏ. Bao nhiêu thứ cầu mongnày không bao giờ người ta toại nguyện, chỉ vì mong quảmà không chịu tạo nhân. Ðây là sự cầu mong suông của nhữngcon người mê muội.

SỰSAI BIỆT GIỮA BỒ-TÁT VÀ CHÚNG SANH

Nhìntrên cái "SỢ" giữa Bồ-tát và chúng sanh đã quá khác biệtnhau. Bồ-tát biết là nhân đau khổ liền hoảng sợ tìm mọicách để tiêu diệt chúng. Còn một chút mầm đau khổ, Bồ-tátvẫn không an. Bởi vậy Bồ-tát luôn luôn ứng dụng Lục độđể khử dẹp mọi mầm nhân đau khổ. Nhân đau khổ đã diệtsạch, quả đau khổ do đâu đến được, nên Bồ-tát khôngbao giờ quan tâm đến quả. Không sợ quả mà quả cũng khôngđến. Ngược lại, chúng sanh nom nớp sợ quả khổ, mà nhânđau khổ không ngăn ngừa, cho nên càng sợ chúng lại càngđến. Người ta khóc lóc than van khi gặp quả khổ, mà khôngchịu nhìn xem quả khổ ấy do ai gây nên. Kêu trời trách đấthận người, chỉ là việc vô ích, có khi quả khổ lại tăngthêm. Không trời Phật nào cố làm chúng ta khổ, do sự dạikhờ ngu muội của chúng ta tạo thành những nhân đau khổ,nhân đã có thì quả cố nhiên phải đến. Khóc than oán tráchchỉ làm thêm đậm nét khổ đau mà thôi.

Ðếnphần giác tha, Bồ-tát cố tạo cho mình đầy đủ khả năng,nào ngũ minh, nào tứ nhiếp pháp, làm thuyền bè cứu vớtchúng sanh. Bồ-tát không mong ước viển vông, mà phải cụthể thực tế nhìn thẳng vào lẽ thật. Cho nên phải rènluyện mình có thật tài, thật đức, mới nói đến sự giáohóa mọi người. Bồ-tát không có thái độ ngây thơ như nhữngngười nói từ bi, nói thương chúng sanh, mà chỉ có ở đầumôi. Bồ-tát là con người hành động, mang trí tuệ và tàinăng của mình đi vào cuộc đời, sống bên cạnh quần chúng,như pháp "Lợi hành" và "Ðồng sự" của Tứ-nhiếp-pháp ,Bồ-tát không phải những hình ảnh thờ ở chùa ngồi trêntòa sen hay cỡi sư tử, mà là những người có kỹ năng khéoléo, mình mẩy lem luốc, đang loay hoay trong xí nghiệp, tronghãng xưởng chế tạo, tự mình làm và chỉ dạy người làm,đây là "Công xảo minh" trong Ngũ minh. Ngược lại, chúng sanhmột bề mong cầu quả đẹp, mà không tạo những nhân tốt.Quả đẹp làm sao có, khi nhân tốt chúng ta chẳng gieo. Muốngặt quả mà không gieo nhân; nếu được, quả ấy chỉ làquả gian lận, quả cướp giựt, bất chánh. Ví như có ngườithấy hàng xóm trồng cam trái chín oằn cây, mê quá lại háingang, nếu chủ vườn thấy đánh gãy tay, nếu không thấyhái được đem về, cũng là cái quả ăn cắp, cái quả xấuxa nhục nhã. Cầu quả mà không chịu gây nhân, là kẻ mơước hão huyền, xa rời thực tế, là kẻ lười biếng muốnăn mà không chịu làm. Không gây nhân cầu quả, là kẻ mêmuội nên gọi là chúng sanh.

Bồ-tátvà chúng sanh, nào có cách biệt bao nhiêu, chỉ chịu đổicái nhìn. Nhìn thẳng vào nhân để thấy rõ nhân khổ thìtránh, nhân vui thì hành là Bồ-tát. Chỉ một bề sợ quảkhổ, cầu quả vui, mà không cần biết nguyên nhân, là chúngsanh. Bồ-tát, chúng sanh trên con người không khác, chỉ kháccái nhìn nhân và nhìn quả thôi. Như hai người cùng đứngmột địa điểm, một người xây mặt về đông, một ngườixây mặt về tây; nếu nguời xây mặt về tây chịu quay lạinhìn về đông, thì đâu có khác nhau. Như thế thì tất cảchúng sanh đều có khả năng làm Bồ-tát, không phải việcBồ-tát chỉ dành riêng cho Bồ-tát, còn chúng ta không có phần.

Xuyênsuốt bài này, chúng ta thấy rõ Bồ-tát và chúng sanh cáchnhau chừng kẽ tơ sợi tóc. Chúng sanh đổi cái "sợ quả"thành "sợ nhân" là chuyển thành Bồ-tát. Thật là mê giácchỉ khác nhau một cái nhìn. Bồ-tát ở đây rất gần gũithân thiết với chúng sanh. Có khi là ông thầy giảng kinh chomọi người nghe, đâu không phải là Bồ-tát, vì ngài thôngsuốt "Nội minh". Có lúc là ông thầy xem mạch bốc thuốccho mọi người, âu cũng là Bồ-tát, vì ngài thực hành "Yphương minh". Một người thợ giỏi đang hướng dẫn chỉdạy đàn em với nhiệt tình không vụ lợi, biết đâu chừngcũng là Bồ-tát, vì ngài thực hiện "Công xảo minh". Cho đếnngười bạn cùng cuốc rẫy trồng khoai mà nói đạo lý chânthật chúng ta nghe, ai ngờ là Bồ-tát, vì Ngài thực hành "Ðồngsự nhiếp". Bồ-tát là những con người thiết thân với chúngta, chỉ khác với chúng ta ở chỗ thấy rõ nhân ác để tránh,nhân thiện để tạo. Còn chúng ta chỉ một bề sợ quả khổcầu quả vui, mà không chịu thấy tường tận nguyên nhâncủa nó. Gần đây bên ngành y học cũng có câu "ngừa bệnhhơn chữa bệnh", cũng na ná sợ nhân hơn là sợ quả. ÐạoPhật là đạo giác ngộ, thấy nguyên nhân rõ ràng là giác,giác là Bồ-tát. Chúng ta tu theo Phật là đi trên con đườnggiác, xét rõ nguyên nhân của mọi việc xảy ra để ngừatránh là theo hạnh Bồ-tát. Mọi người chúng ta đều có khảnăng thực hiện việc "sợ nhân", thì chúng ta ai cũng làm Bồ-tátđược.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2011(Xem: 21490)
Phật Và Thánh Chúng The Buddha and His Sacred Disciples Chương 1: Đức Phật—The Buddha Chương 2: Đạo Phật—Buddhism Chương 3: Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan Phật Giáo Buddhist Points of view on Human Life and Buddhist Cosmology Chương 4: Chuyển Pháp Luân và Năm Đệ Tử Đầu Tiên Turning The Wheel of Dharma and The First Five Disciples Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—Buddhist Councils Chương 6: Tam Bảo và Tam Tạng Kinh Điển Triple Jewels and Three Buddhist Canon Baskets Chương 7: Kinh và Những Kinh Quan Trọng—Luật—Luận Sutras and Important Sutras-Rules-Commentaries Chương 8: Đạo và Trung Đạo—Path and Middle Path Chương 9: Vi Diệu Pháp—Abhidharma Chương 10: Tam Thời Pháp—Three Periods of The Buddha’s Teachings Chương 11: Thân Quyến—The Buddha’s Relatives Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—Ten Great Disciples Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—Other Famous Disciples Chương 14: Giáo Đoàn Tăng và Giáo Đoàn Ni—Monk and Nun Orders Chương 15: Tứ Động Tâm—Four Buddhis
12/05/2011(Xem: 6934)
Nhiều lý thuyết siêu hình của Phật giáo tỏ ra xa vời, khó hiểu và khó tiếp cận đối với độc giả trung bình chưa được chuẩn bị để tiếp nhận chúng. Đó là vì chúng đòi hỏi một sự thông hiểu sâu sắc và lâu dài các định luật của thế giới tâm linh và tiết nhịp của đời sống tinh thần, chưa nói đến khả năng hãn hữu cần có để duy trì sự suy nghiệm khô khan. Thêm vào đó, các nhà tư tưởng Phật giáo lại tạo nên một số giả định ngầm mà các triết gia Tây phương hiện đại đã minh nhiên bác bỏ. Thứ nhất, chung cho hầu hết mọi người Ấn độ bình thường*, khác với người châu Âu có tính ‘khoa học’, tư tưởng lấy những kinh nghiệm du-già làm nguyên vật liệu cho phản tỉnh triết học.
11/02/2011(Xem: 33675)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
28/01/2011(Xem: 15108)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
05/01/2011(Xem: 13889)
Triết thuyết Căn Bản của PG Đại Thừa
05/01/2011(Xem: 36546)
Từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 6 năm 2007 này, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ viếng thăm Úc Châu, đây là chuyến thăm Úc lần thứ năm của Ngài để giảng dạy Phật Pháp. Mọi người đang trông đợi sự xuất hiện của ngài. Bốn lần viếng thăm Úc trước đây đã diễn ra vào các năm 1982, 1992, 1996, 2002, đặc biệt trong lần viếng thăm và hoằng pháp lần thứ tư năm 2002, đã có trên 110. 000 người trên khắp các thủ phủ như Melbourne, Geelong, Sydney, và Canberra đến lắng nghe ngài thuyết giảng để thay đổi và thăng hoa đời sống tâm linh của mình.
04/01/2011(Xem: 5684)
Nói đến tiến trình phát triển Phật giáo là nói đến lộ trình diễntiến của Phật giáo từ lúc Phật nói bài pháp đầu tiên sau khi thành đạo cho đến bây giờ, suốt thời gian trên hai mươi lăm thế kỷ; là nói đến nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho nhóm Kiều-trần-như ở vườn Lộc Uyển cho đến bây giờ, trải qua một không gian rộng lớn từ lưu vực sông Hằng ở vùng Ấn Độ, đến miền Tây, vượt khỏi biên thùy Ấn Độ, đến Hy Lạp, Ai Cập, qua những sa mạc mênh mông, những dãy núi cao vòi vọi, những đồng bằng bát ngát, từ Trung Á đến Trung Quốc, Việt Nam, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật Bản, xuống Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cao Miên, Mã Lai, vượt Địa Trung Hải đến Âu châu, vượt Thái Bình Dương đến Úc châu, Mỹ Quốc. vượt Ấn Độ Dương đến Phi châu, vượt Đại Tây Dương đến Trung Mỹ, Nam Mỹ.
31/12/2010(Xem: 7552)
Tư Tưởng Chính Trị Trong Triết Học Khổng Giáo _ Trần Quang Thuận Thư Lâm Ấn Quán Thư xuất bản năm 1961 Sài Gòn
24/12/2010(Xem: 7236)
"Vị Trú Trì có một vai trò rất quan trọng, bởi lẽ Chùa và Niệm Phật Đường là nơi quy tụ quần chúng Phật tử, gắn bó với mọi hoạt động của con người xã hội. Sự thịnh suy của ngôi Chùa, của Niệm Phật Đường chính là sự thịnh suy của Đạo Phật tại địa phương ấy và góp phần vào sự thịnh suy chung của Phật Giáo Việt Nam..."
24/12/2010(Xem: 8133)
Đối với Phật giáo, sự sinh tồn của con người và môi trường là bình đẳng, không tách rời; Giáo dục Phật giáo đưa con người gần với môi trường tự nhiên, cùng sinh tồn, coi yếu tố môi trường là một, gần gũi thân thiện chứ không phải là đối tượng để con người lợi dụng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]