Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

10-Từ bi

28/01/201109:41(Xem: 8965)
10-Từ bi

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT
HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Từ bi

I.-MỞÐỀ

Tìnhthươnglà nguồn an ủi vô biên của chúng sanh đang đau khổ,là bể nước cam lồ mát ngọt để cho những người đangbị lửa trần gian thiêu đốt mặc tình nhảy ùm tắm gội.Song phải là tình thương hoàn toàn vị tha, không nhuốm mộttí xíu mùi vị kỷ. Nếu là tình thương vị kỷ, chẳng nhữngkhông làm vơi được nỗi khổ của chúng sanh, trái lại còndìm họ chìm sâu trong biển khổ. Tình thương vị tha là vôbiên không giới hạn, tràn ngập mọi loài, chan hòa trong muônloại. Người mang tình thương này ra chan rải cho chúng sanh,quả là một từ mẫu đang săn sóc bầy con dại. Bao nhiêukhổ đau, mọi điều ách nạn vừa gặp tình thương này chúngđều tan biến. Cao cả thay! Quí báu thay! Ðẹp đẽ thay! Nhữngai đã cưu mang ôm ấp tình thương vô bến hạn này.

II.-ÐỊNH NGHĨA

Từlà ban vui, Bi là cứu khổ. Ban vui cứu khổ cho người gọilà từ bi. Sự vui khổ của người xem như vui khổ của chínhmình, chia vui sớt khổ cho nhau đấy là lòng từ bi. Vì thế,ban vui cứu khổ cho người mà không thấy ta là kẻ ban ân,kia là kẻ thọ ân. Tận tâm tận lực vì người, không cómột niệm một mảy may vì mình là từ bi. Ðây mới thậtlà tình thương chân thật. Nếu có một điểm nhỏ xíu vìmình là không phải tình thương chân thật. Có vì mình màthương người, chính đó là thương mình không phải thươngngười. Một tình thương vì mình thì không hẳn là thương,bởi trái sở cầu của mình liền giận. Hoàn toàn vì ngườihoàn toàn cho người, mới là tình thương vô biên không giớihạn. Tình mẹ thương con chưa hẳn là từ bi, vì con khôngnghe lời mẹ liền giận. Tình thương từ bi là tình thươngđồng hóa khổ vui của người như của mình. Mình khổ càngkíp lo giải quyết cho hết khổ, mình không cần biết ơn mình,mình không kể ơn với mình. Cảm thông sự khổ vui của mọingười như thế, khởi tình thương ban vui cứu khổ là lòngtừ bi. Cứu giúp để mong đền đáp là sự đổi chác khôngphải lòng từ bi. Thương yêu để thỏa mãn nhu cầu riêngtư mình, là lợi dụng tình thương, không phải từ bi. Mọisự xót thương cứu giúp người, không xen lẫn một tí vìmình thật là lòng từ bi.

III.-MỚI TẬP TỪ BI

Muốnphát tâm từ bi, chúng ta phải tập cảm thông sự khổ vuivới mọi người. Thấy người khổ cảm như chúng ta chịukhổ, nỗi khổ của người xem như nỗi khổ của chúng ta.Dùng mọi khả năng sẵn có dẹp khổ cho người cũng như tiêudiệt khổ của chính bản thân mình. Người hết khổ là chúngta hết khổ, không cần một đòi hỏi nào, ngoài sự hếtkhổ của người. Ðã xem cái khổ của người như của mình,nên nhiệt tình sốt sắng cứu giúp mà không điều kiện.Người khỏi khổ là mình an vui, không có một hậu ý nàođối với người mình cứu giúp. Nếu có hậu ý, chỉ mongđem lại cho họ sự an vui vĩnh cửu. Thấy người vui cũngnhư mình được vui, những cái vui của mình đã sẵn sàngchia sớt với người, bằng cách giải bày, bằng cách chiasẻ, bằng cách mong mỏi. Chia sớt với nhau cùng được vuichung thật là hạnh phúc chân thật ở trần gian. Chỉ đểmột mình vui, ai sao mặc kệ, là kẻ ích kỷ xấu xa, chínhhọ không bao giờ thấy sự an vui chân thật. Chúng ta phảithấy cái vui của mình là cái vui của mọi người, cái vuicủa người chính là cái vui của mình. Cùng khổ cùng vui mớilà tình thương chan hòa tràn ngập. Chỉ biết cái vui khổriêng tư của mình là tự đóng khung trong một nhà giam riêngbiệt, kẻ ấy suốt đời không bao giờ biết vui. Chúng tatrải lòng mình ra hòa nhịp với mọi con tim, chứa chan tìnhthương không bến hạn. Bởi cảm thông nhau trên nỗi khổvui, chúng ta mới có nhiệt tình tích cực cùng sớt khổ chiavui. Mọi bức tường ngăn cách giữa bản ngã con người, chúngta mạnh dạn đạp đổ cho sự cảm thông không bị cuộc hạn.Thông cảm được sự khổ vui của mọi người, chúng ta bắtđầu phát tâm từ bi. Vì thế, mới tập từ bi là tập cảmthông.

Tuynhiên lòng từ bi là không giới hạn, song mới tập từ biphải phát xuất từ gần lan dần ra xa. Chúng ta tập cảm thôngtừ những người sống chung, thân thuộc với chúng ta, dầndần đến những người xa lạ bên ngoài. Nếu những ngườichung sống với mình không thể cảm thông được, chỉ cảmthông được với những người xa lạ bên ngoài, đó là tráhình từ bi, chớ chưa phải thực chất từ bi. Chúng ta phảitập lòng từ bi cho có căn bản, sự kết quả chắc chắnsẽ đúng như nguyện.

IV.-ÐÃ TẬP TỪ BI

Lòngtừ bi đã phát hiện nơi chúng ta, mọi sân hận tham lam theođó tiêu diệt. Người từ bi không thể nổi nóng chưởi đánhkẻ khác. Ðã thấy sự đau khổ của người chính là đaukhổ của mình, vô lý mình lại làm khổ mình. Chỉ thấy kẻkhác với mình không liên hệ nhau mới đành lòng làm họ khổ.Quả thật cảm thông được nỗi khổ đau của người, lòngsân vừa dấy khởi liền tắt ngủm. Bởi nước từ bi trànngập thì không có lý do lửa sân nổi dậy. Lửa sân cháyhừng hực, chính là lúc nướùc từ bi đã khô cạn. Tự ngườigặp cảnh khổ, người có lòng từ bi còn không nỡ lấy mắtngó, cần phải tìm đủ cách để giải khổ cho người. Nếukhả năng chúng ta không thể giải cứu được, lòng vẫn xótxa đau đớn. Huống là, đích thân mình làm khổ cho người,lòng từ bi không cho phép dùng ngôn ngữ hành động làm khổkẻ khác. Bao giờ chúng ta thích làm khổ mình, chừng đó mớivui vẻ làm khổ người. Gặp khổ chúng ta biết rầu buồnthan thở, nỡ nào làm khổ kẻ khác cho đành. Kết quả đầucủa lòng từ bi là diệt sạch sân hận của chính mình.

Ngườitừ bi đâu đành tranh giành hơn thua được mất với người.Bởi kẻ được thì vui người mất phải khổ, giành giậtnhau là làm khổ cho nhau. Lòng từ bi là cứu khổ, vô lý lạiđi làm khổ người. Tham lam là thu góp, giành giật. Từ bilà ban bố cứu giúp. Mang lòng từ bi thì mọi hành động cótánh cách tranh đua giành giật không còn. Chính của mình cònmang ra ban bố cho người, không thể có giành giật của ngườiđem về mình. Lòng từ bi với tham lam là hai con sông chảyngược. Có cái này thì không thể có cái kia. Lòng từ bi điđến đâu thì đau khổ tan đến đấy, như ánh nắng soi đếnđâu thì băng tuyết đều tan. Từ bi không dung đau khổ, dĩnhiên từ bi không chứa chấp tham lam. Từ bi tràn lấn thamlam phải rã rời.

Vớimọi lớp người trong mọi cảnh huống, chỉ một bề mangtình thương chân thật đến với họ, không một hành độngngôn ngữ để cho họ phải phiền hà, thuần túy ban vui cứukhổ. Hành động như thế là thuận hạnh từ bi. Lòng từbi này một bề thể hiện tình thương, chiều theo sở nguyệncủa người. Làm trái ý người là khiến họ đau khổ, thuậnhạnh từ bi là không trái ý nguyện của chúng sanh.

Songtâm ý chúng sanh điên đảo, có cái khổ trá hình an vui họlại thèm thuồng ưa muốn, người sẵn lòng từ bi, có khicần đổi cái khổ nhỏ cho họ cái vui lớn, vẫn phải làm.Hoặc những chúng sanh ngỗ nghịch mãi tạo tội không chán,người từ bi cần phải ngăn chận bằng cách trừng trị dữdằn. Hiện tướng dữ để điều phục đưa người về chỗan vui, là nghịch hạnh từ bi. Hạnh từ bi này vừa mới trôngnhư kẻ ác, nhưng mai kia mới thấy rõ lòng từ. Người thểhiện lòng từ bi này cần phải sáng suốt, thật là làm mộtviệc khó làm. Dù thuận hạnh hay nghịch hạnh cũng là mộtnguồn ban vui cứu khổ. Bản chất từ bi là nhẹ nhàng mátmẻ, nên mọi chúng sanh bị nhiệt não gặp từ bi đều đượcan lành.

V.-CỨU KÍNH TỪ BI

Lòngtừ bi được viên mãn khi nào mọi vọng thức không còn. Vìvọng thức chạy theo nghiệp phân biệt có yêu có ghét, khómang tình thương chân thật bình đẳng lại cho chúng sanh. Khinghiệp thức đã sạch, chỉ một tâm thể thênh thang bìnhđẳng bao trùm tất cả chúng sanh, không phân biệt ngã nhânbỉ thử, làm gì có thương ghét nảy sanh. Sống với tâm thểnày chỉ tràn trề lênh láng một tình thương. Tình thươngmà không phân biệt, không còn chủ khách đối đãi, bao dungkhông giới hạn, mới là tình thương chân thật hay viên mãnlòng từ bi. Còn thấy đối đãi là còn phân biệt; còn dụngcông, mọi sự đối đãi đã tiêu dung, biết lấy đâu làmgiới hạn. Cho nên ví lòng từ bi thênh thang như trời cao,bát ngát như bể cả. Từ bi trong chỗ không phân biệt khôngdụng công nên gọi là vô duyên từ.

VI.-KẾT LUẬN

Từbi là tình thương hoàn toàn bất vụ lợi. Bọn ác quỉ sânhận tham lam tật đố gặp từ bi đều chấp tay quì gối quihàng. Có mặt từ bi ở đâu thì mọi khổ đau tan biến ởđó. Từ bi ngọt ngào như dòng sữa mẹ, từ bi mát dịu nhưngọn gió chiều thu, từ bi trong sáng như ánh trăng rằm, từbi phát sanh muôn ngàn công đức như lòng tốt phì nhiêu nuôidưỡng vạn vật. Chúng ta tôn trọng kính mến những ai đãmang sẵn lòng từ bi, tán thán ca ngợi ai mới phát tâm từbi, ước mơ mong mỏi ai sẽ học tập từ bi. Mọi người chúngta gắng công khơi dậy dòng suối từ bi, để một ngày kiachảy tràn ngập trần gian đang nhiệt não. Hạnh phúc ở nhângian nếu có, khi nào nguồn nước từ bi tràn về. Tất cảchúng ta đừng mong đấng nào cứu khổ, chỉ chấp tay cầunguyện mọi người đều phát tâm từ bi. Ngọn lửa khổ đaudập tắt, khi trận mưa từ được gội nhuần. Chân thànhmong ước mọi người đều phát lòng từ bi.















Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/05/2011(Xem: 21489)
Phật Và Thánh Chúng The Buddha and His Sacred Disciples Chương 1: Đức Phật—The Buddha Chương 2: Đạo Phật—Buddhism Chương 3: Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan Phật Giáo Buddhist Points of view on Human Life and Buddhist Cosmology Chương 4: Chuyển Pháp Luân và Năm Đệ Tử Đầu Tiên Turning The Wheel of Dharma and The First Five Disciples Chương 5: Kết Tập Kinh Điển—Buddhist Councils Chương 6: Tam Bảo và Tam Tạng Kinh Điển Triple Jewels and Three Buddhist Canon Baskets Chương 7: Kinh và Những Kinh Quan Trọng—Luật—Luận Sutras and Important Sutras-Rules-Commentaries Chương 8: Đạo và Trung Đạo—Path and Middle Path Chương 9: Vi Diệu Pháp—Abhidharma Chương 10: Tam Thời Pháp—Three Periods of The Buddha’s Teachings Chương 11: Thân Quyến—The Buddha’s Relatives Chương 12: Thập Đại Đệ Tử—Ten Great Disciples Chương 13: Những Đệ Tử Nổi Tiếng Khác—Other Famous Disciples Chương 14: Giáo Đoàn Tăng và Giáo Đoàn Ni—Monk and Nun Orders Chương 15: Tứ Động Tâm—Four Buddhis
12/05/2011(Xem: 6934)
Nhiều lý thuyết siêu hình của Phật giáo tỏ ra xa vời, khó hiểu và khó tiếp cận đối với độc giả trung bình chưa được chuẩn bị để tiếp nhận chúng. Đó là vì chúng đòi hỏi một sự thông hiểu sâu sắc và lâu dài các định luật của thế giới tâm linh và tiết nhịp của đời sống tinh thần, chưa nói đến khả năng hãn hữu cần có để duy trì sự suy nghiệm khô khan. Thêm vào đó, các nhà tư tưởng Phật giáo lại tạo nên một số giả định ngầm mà các triết gia Tây phương hiện đại đã minh nhiên bác bỏ. Thứ nhất, chung cho hầu hết mọi người Ấn độ bình thường*, khác với người châu Âu có tính ‘khoa học’, tư tưởng lấy những kinh nghiệm du-già làm nguyên vật liệu cho phản tỉnh triết học.
11/02/2011(Xem: 33675)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
28/01/2011(Xem: 15108)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
05/01/2011(Xem: 13889)
Triết thuyết Căn Bản của PG Đại Thừa
05/01/2011(Xem: 36545)
Từ ngày 6 đến ngày 16 tháng 6 năm 2007 này, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ viếng thăm Úc Châu, đây là chuyến thăm Úc lần thứ năm của Ngài để giảng dạy Phật Pháp. Mọi người đang trông đợi sự xuất hiện của ngài. Bốn lần viếng thăm Úc trước đây đã diễn ra vào các năm 1982, 1992, 1996, 2002, đặc biệt trong lần viếng thăm và hoằng pháp lần thứ tư năm 2002, đã có trên 110. 000 người trên khắp các thủ phủ như Melbourne, Geelong, Sydney, và Canberra đến lắng nghe ngài thuyết giảng để thay đổi và thăng hoa đời sống tâm linh của mình.
04/01/2011(Xem: 5684)
Nói đến tiến trình phát triển Phật giáo là nói đến lộ trình diễntiến của Phật giáo từ lúc Phật nói bài pháp đầu tiên sau khi thành đạo cho đến bây giờ, suốt thời gian trên hai mươi lăm thế kỷ; là nói đến nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho nhóm Kiều-trần-như ở vườn Lộc Uyển cho đến bây giờ, trải qua một không gian rộng lớn từ lưu vực sông Hằng ở vùng Ấn Độ, đến miền Tây, vượt khỏi biên thùy Ấn Độ, đến Hy Lạp, Ai Cập, qua những sa mạc mênh mông, những dãy núi cao vòi vọi, những đồng bằng bát ngát, từ Trung Á đến Trung Quốc, Việt Nam, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật Bản, xuống Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cao Miên, Mã Lai, vượt Địa Trung Hải đến Âu châu, vượt Thái Bình Dương đến Úc châu, Mỹ Quốc. vượt Ấn Độ Dương đến Phi châu, vượt Đại Tây Dương đến Trung Mỹ, Nam Mỹ.
31/12/2010(Xem: 7551)
Tư Tưởng Chính Trị Trong Triết Học Khổng Giáo _ Trần Quang Thuận Thư Lâm Ấn Quán Thư xuất bản năm 1961 Sài Gòn
24/12/2010(Xem: 7236)
"Vị Trú Trì có một vai trò rất quan trọng, bởi lẽ Chùa và Niệm Phật Đường là nơi quy tụ quần chúng Phật tử, gắn bó với mọi hoạt động của con người xã hội. Sự thịnh suy của ngôi Chùa, của Niệm Phật Đường chính là sự thịnh suy của Đạo Phật tại địa phương ấy và góp phần vào sự thịnh suy chung của Phật Giáo Việt Nam..."
24/12/2010(Xem: 8133)
Đối với Phật giáo, sự sinh tồn của con người và môi trường là bình đẳng, không tách rời; Giáo dục Phật giáo đưa con người gần với môi trường tự nhiên, cùng sinh tồn, coi yếu tố môi trường là một, gần gũi thân thiện chứ không phải là đối tượng để con người lợi dụng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]