Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 1: Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh.

05/04/201312:55(Xem: 7169)
Phần 1: Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh.
Văn Học Phật Giáo Việt Nam - Tập 3

Phần 1: Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh.

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Nguồn: Tiến sĩ Lê Mạnh Thát


Trong công tác nghiên cứu lịch sử dân tộc ta, vấn đề khai thác những tư liệu phản ảnh quan điểm và lập trường đấu tranh của dân tộc là một cần thiết. Và việc đó càng trở nên cần thiết và quan trọng hơn nữa, khi ta đi vào lĩnh vực nghiên cứu cổ sử và trung sử. Bởi vì về giai đoạn đó, các chính sử ta thường chép rất sơ sài, thậm chí chép lại những gì do những ngòi bút thù địch với dân tộc và chống lại nước ta viết ra, đưa đến tình trạng một bộ chính sử ta đã công nhiên ngợi ca sự nghiệp của một tên xâm lược đầu sỏ đầy tội ác đối với nước ta như Cao Biền.

Trong số những tư liệu hiện còn loại đấy, ta chỉ có vỏn vẹn ba tác phẩm đó là Việt điện u linh tập, Lĩnh nasm chích quái truyện và Thiền uyển tập anh. Về hai tác phẩm đầu, trước đây chúng đã được phiên dịch và in lại nguyên văn, dẫu rằng những công tác ấy chưa đạt được tiêu chuẩn khoa học đáng muốn. Còn lại Thiền uyển tập anh thì kể từ ngày Trần Văn Giáp phát hiện và giới thiệu nó với học giới trong bài Phật giáo ở Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ thứ XIII [5], tính chất quan trọng của tác phẩm này không những đối với môn cổ sử và lịch sử giải phóng dân tộc, mà còn đối với các môn học khác từ văn học nghệ thuật cho đến khoa học kỹ thuật đã được nhiều người chú ý tới.

Như một bộ sử chuyên môn không thuộc loại chính sử về lịch sử Phật giáo thiền tông Việt Nam, nó có thể ở vào địa vị phản ảnh một phần nào quan điểm và lập trường đấu tranh của dân tộc cùng tình tự và ý chí của họ trong liên hệ với lịch sử vận động giải phóng và chống ngoại xâm, mà điển hình nhất là những truyện Định Không và La Quí cùng các truyện Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh. Những truyện Định Không và La Quí kể lại những mẩu tin rất ly kỳ, nhưng cũng rất thực tế trong công tác tuyên truyền vận động độc lập của những người yêu nước sống rải rác trong các mạng lưới của làng mạc Việt Nam dưới những hình thức sấm vĩ, tín ngưỡng chùa chiền. Chúng vạch cho thấy họ đã vận động cho cuộc chiến đấu ấy như thế nào, đã lãnh đạo cuộc vận động đó với một lý thuyết gì. Các truyện Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh đã diễn tả một cách khá rõ rệt tính chất dân tộc của những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm do dân tộc ta thực hiện trong những ngày tháng đầu của thuở mới lập quốc qua sự tham dự tích cực và trực tiếp của hầu hết mọi tầng lớp người.

Nhưng Thiền uyển tập anh không chỉ là một tác phẩm phản ảnh quan điểm và thái độ quần chúng trong một cách thể nào đó. Nó còn là một cuốn sử giúp ta nhiều tài liệu nghiên cứu về cổ sử Việt Nam từ thế kỷ thứ VI cho đến thế kỷ thứ XIII. Thực vậy, nó ngày nay chứa đựng nhiều chi tiết, nhiều tên người, tên đất, nhiều sự việc mà các chính sử có quyển ghi, có quyển không ghi, thậm chí, đôi khi không có quyển nào ghi cả. Chẳng hạn, cái tên Khúc Lãm xuất hiện trong truyện La Quí. Lãm chắc chắn là một trong những người lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời kỳ manh nha của nó với các vị khác như Khúc Hạo, Khúc Thừa Dụ, Khúc Thừa Mỹ v.v..., nhưng ngày nay không thấy sử sách nào khác chép tới. Hay Cương Giáp, nơi đóng quân của tên tướng Hầu Nhân Bảo trong trận đọ sức đầu tiên giữa dân tộc ta với quân xâm lược Tống, mà các chính sử không thấy đâu ghi cả. Trong liên hệ này, ta có thể nói rằng đối với môn địa lý học lịch sử, Thiền uyển tập anh có một cống hiến thật đặc sắc, bởi vì nó là một tác phẩm đời Trần duy nhất còn lại chứa đựng nhiều tên ấp, tên làng, tên quận, tên phủ và tên châu của đời Lý cũng như của đời Trần hơn bất cứ một tác phẩm nào khác, kể cả bộ chính sử Đại Việt sử lược. Khai thác kho tàng những tên đất đấy và xác định lại vị trí của chúng, nếu hoàn thành, có thể nói ta đã vẽ lại được một phần bản đồ địa lý chi tiết của nước ta vào thời Lý một cách cụ thể, nhờ vào tên của các ngôi chùa gắn liền với các tên đất ấy.

Không những thế, do chính sách văn hóa nô dịch thô bạo và thâm độc của bọn xâm lược Minh hồi đầu thế kỷ thứ XV, tất cả những sách vở nước ta trước thế kỷ đó hầu hết đều bị chúng hủy hoại, dẫn cuối cùng đến tình trạng là, một nền văn học rực rỡ và phong phú như nền văn học đời Lý đã không còn để lại một vết tích nào, nếu ta không nói đến Thiền uyển tập anh và một số bi ký ở các chùa hiện đã phát hiện được. Thực vậy, ngay từ những năm 1433, sau khi đã thu hồi lại độc lập và ổn định được đời sống của nhân dân, những nỗ lực thu thập thi văn các đời Lý, Trần của những học giả đời Lê chỉ chủ yếu ghi lại được các tác giả đời Trần mà thôi, còn tuyệt đại bộ phận các tác giả đời Lý thì hoàn toàn vắng bóng. Sự trạng ấy, ta chỉ cần dở Việt âm thi tập của Phan Phù Tiên, Quần hiền phú tập của Hoàng Tụy Phu cùng Tinh tuyển chư gia luật thi của Dương Đức Nhan thì cũng đủ thấy. Việt âm thi tập hoàn thành sau khi thu hồi độc lập khoảng 6 năm, tức vào năm 1433, đã tuyệt nhiên không ghi lại một tác gia đời Lý nào hết. Quần hiền phú tập viết xong khoảng năm 1457 cũng vậy. Đến Tinh tuyển chư gia luật thi của Dương Đức Nhan đỗ tiến sĩ khoa 1463 với một nhan đề quyển sách như thế, ta không cần phải nói là, không có một tác giả đời Lý nào được kể tới. Cả mấy trăm năm văn học của một dân tộc đã bị bỏ quên. Sự trạng ấy ta phải đợi đến Lê Quí Đôn mới được chấn chỉnh lại trong bộ Toàn Việt thi lục và Kiến văn tiểu lục của ông. Nhưng Lê Quí Đôn làm được như vậy chủ yếu là nhờ vào Thiền uyển tập anh, mà ông đã biết khai thác một cách có phương pháp và hệ thống. Rõ ràng, đối với lịch sử văn học dân tộc ta, Thiền uyển tập anh đóng một vai trò hết sức quan trọng và thiết yếu. Thiếu nó, thì cả mấy trăm năm lịch sử văn học dân tộc phai mờ tiêu tán đi không phải ít.

Từ lĩnh vực văn học bước sang lĩnh vực tư tưởng triết lý không xa. Cho nên, nếu Thiền uyển tập anh đóng một vai trò quan trọng như thế nào đối với lịch sử văn học dân tộc, thì nó cũng đóng một vai trò tương tự trong lịch sử tư tưởng triết lý. Và vai trò ấy, thực tế, có một tầm quan trọng hơn nhiều, khi ta nhớ rằng nó tự bản chất là một bộ sử chuyên môn về lịch sử Phật giáo thiền tông Việt Nam. Mà Phật giáo thiền tông Việt Nam vào những mấy trăm năm ấy, nếu không nói là hệ tư tưởng chỉ đạo thì nó cũng ở vào địa vị của một hệ tư tưởng chiếm ưu thế trong giai đoạn lịch sử đó. Trong giai đoạn này, dân tộc ta đã làm nên những chiến công hiển hách, đưa cả dân tộc lên đỉnh cao của thời đại, đứng vào hàng những đội quân Tiên Phong của loài người chống xâm lược và áp bức, dân tộc ta đã xây dựng được một nhà nước vì dân, một nền kinh tế vững mạnh và một nền khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất định. Làm nên được những kỳ tích như thế trong một tình huống như tình huống của nước ta sau khi Ngô Quyền đánh bại quân xâm lược Nam hán và Đinh Tiên Hoàng thống nhất tổ quốc về một mối thì phải kể là những kỳ tích vô tiền khoáng hậu, hiếm có trong lịch sử loài người. Hệ tư tưởng chủ đạo nào đã hướng dẫn họ trên bước đường đưa cả dân tộc đi tới vinh quang đó? Điều này rõ rệt đòi hỏi ta phải giải quyết vấn đề lý luận dân tộc nào đã giúp nhân dân ta đoàn kết một lòng một dạ với nhau, cùng nhau chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước. Nó đòi hỏi ta phải đặt thành vấn đề hệ tư tưởng chủ đạo của dân tộc ta vào thời Đinh, Lê, Lý, Trần và bắt buộc ta phải nghiên cứu nghiêm túc, nhằm rút tỉa những tinh hoa của truyền thống, đóng góp vào việc xây dựng con người mới Việt Nam hôm nay. Để giải quyết những vấn đề đấy, công tác nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam tất không thể nào không tìm đến Thiền uyển tập anh. Có thể nói, nó là nơi tập đại thành những luồng tư tưởng chủ yếu của dân tộc từ thời nhà Trần trở về trước.

Đây là mấu chốt của vấn đề nghiên cứu hệ tư tưởng chủ đạo thời Đinh, Lê, Lý, Trần, và trước đó. Phân tích và nắm được những điểm chủ yếu của vấn đề ấy, ta có thể nói là đã giải quyết được nó về mặt cơ bản. Trong chiều hướng cung cấp tư liệu và mẫu hình cho công tác phân tích đấy, Thiền uyển tập anh với tiểu sử của 68 thiền sư hầu hết đều có ghi thành phần gia đình, giai cấp và sống trải dài trên một khoảng thời gian gần 700 năm, rõ ràng có thể giúp xác định hệ tư tưởng Phật giáo thiền tông Việt Nam, mà họ là những đại diện chân chính và được thừa nhận. Trong viễn tượng đấy, vai trò của Thiền uyển tập anh trở nên hết sức trọng yếu cho những ai muốn nghiên cứu lịch sử tư tưởng dân tộc và hệ tư tưởng chủ đạo của Việt Nam từ thời Trần trở về trước. Đương nhiên, với số lượng 68 người có tiểu sử, nó chưa cung cấp cho ta một mẫu xác suất tốt nhất đáng muốn. Nhưng trong tình trạng sử liệu ngày nay, ta không mong gì hơn. Qua họ, hệ tư tưởng họ đại biểu có thể xác định một cách khá đúng đắn và cụ thể. Từ đó, vấn đề bản chất của Phật giáo thiền tông Việt Nam tất nhiên phải bộc lộ.

Ngoài ra, Thiền uyển tập anh còn cần thiết cho những khoa học khác từ kinh tế học, dân tộc học, xã hội học v.v... cho đến mỹ nghệ và kỹ thuật. Chẳng hạn, nghiên cứu về tập tục và đời sống của dân ta ở những vùng biên giới, ta có những truyện Ma Ha, Giới Không v.v... ghi lại lối sống, lối tín ngưỡng của họ. Hay tìm hiểu về lai nguyên của nghề in tại Việt Nam, ta có truyện Tín Học xác định thành phần gia đình Học là “đời đời làm nghề in kinh”. Hay khảo sát về thành phần xã hội thời Lý và hệ thống cấu trúc của nó, ta có truyện nhiều thiền sư ghi lại thành phần gia đình của họ vv...

Thiền uyển tập anh như vậy chứa đựng nhiều tài liệu phong phú và đặc sắc cho công tác nghiên cứu lịch sử cũng như nhiều khoa học kỹ thuật và mỹ thuật khác. Dẫu thế, cho đến nay chưa có một bản dịch nghiêm chỉnh và đầy đủ nào về nó xuất hiện, nên những người nghiên cứu, dù nhắc tới nó nhiều, ít ai có dịp đọc toàn bộ bản văn đó. Bản dịch hiện nay của chúng tôi là nhằm cung ứng cho những người nghiên cứu ấy một bản dịch như thế. Trước đây, một số người cũng có ý muốn dịch nó và họ quả đã dịch, hay đúng hơn phỏng dịch một phần nào hay toàn bộ và xuất bản dưới những tên khác nhau [6]. Nhưng tất cả đều chưa đạt yêu cầu. Tình trạng này xuất phát từ hai nguyên cớ chính, đấy là: 1- Họ chưa nắm vững lịch sử truyền bản của bản văn, nên đã không chọn được một truyền bản chính xác để làm đề bản cho công tác hiệu thù và phiên dịch, và 2- Họ chưa phân tích kỹ nội dung bản văn, nên tới những đoạn khó, họ hoặc đa số lướt qua không dịch, hoặc nếu bắt buộc quá mà phải dịch, họ thường phạm phải những sai lầm. Để khắc phục tình trạng sai trái vừa nêu, bản dịch hiện nay bao gồm có phần nghiên cứu về tự thân bản văn và phần chú thích bản văn đó. Phần nghiên cứu về tự thân bản văn nhằm giải quyết những vấn đề truyền bản của bản văn, tên gọi nó, soạn niên và tác giả nó cùng vấn đề sử liệu nó dùng và vấn đề hiệu bản cho bản dịch chúng tôi. Phần chú thích, vì nhằm cung ứng tài liệu cho những người nghiên cứu ở nhiều bộ môn khác nhau, chúng tôi đã cố gắng chú thích rất kỹ và nói rõ nguyên lai những chú thích cho tiện việc tra cứu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/08/2014(Xem: 51885)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
18/03/2014(Xem: 10834)
Phật dạy bậc đại nhân có tám điều giác ngộ. Điều thứ nhất, giác ngộ cuộc đời là vô thường, vũ trụ mênh mông tạm bợ. Gốc của bốn đại vốn không thật, trống rỗng nhưng nếu chúng ta không biết, chấp nó là thật thì sẽ dẫn đến đau khổ. Tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh diệt thay đổi không ngừng, không thật và không có chủ thể. Tâm này là cội nguồn phát sinh điều ác, thân này là nơi tích tụ tội lỗi. Người hay quán chiếu được như thế dần dần sẽ thoát khỏi sanh tử.
10/12/2013(Xem: 20852)
Pháp Tướng Tông (Duy Thức Tam Thập Tụng) của Bồ Tát Thế Thân, Vu Lăng Ba giảng, cư sĩ Lê Hồng Sơn dịch
03/12/2013(Xem: 52166)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
29/11/2013(Xem: 20728)
Chúng tôi chọn viết đề tài dừng tâm sanh diệt là nhân có một Phật tử than: Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
25/11/2013(Xem: 16764)
Nhìn vào tín ngưỡng Phật giáo nhiều người thường thắc mắc tại sao lại có nhiều "thứ" đến thế! Thật vậy Phật giáo có rất nhiều học phái, tông phái, chi phái..., một số đã mai một, thế nhưng một số vẫn còn đang phát triển và đồng thời cũng có nhiều chuyển hướng mới đang được hình thành. Đối với một người tu tập Phật giáo thì sự kiện ấy thật hết sức tự nhiên: tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều chuyển động, sinh sôi nẩy nở và biến đổi không ngừng. Nếu nhìn vào các tín ngưỡng khác thì ta cũng sẽ thấy cùng một hiện tượng như thế.
30/10/2013(Xem: 34686)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
17/10/2013(Xem: 36195)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
08/05/2013(Xem: 5298)
Giáo lý nghiệp của Phật giáo có thể sử dụng để biện giải về sự sinh tử luân hồi, đa dạng của chúng sanh trong ba cõi, sáu đường. Các khái niệm về nghiệp được hình thành rất sớm, ngay trước khi bộ tộc Aryan xâm chiếm Ấn Ðộ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567