Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. London, 12 tháng sáu 1962

09/07/201100:31(Xem: 3296)
3. London, 12 tháng sáu 1962

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Từ quyển Bình phẩm về sống
Tập 3: Sống, chết, và Tồn tại

London, 12 tháng sáu 1962

Tôi muốn nói về thời gian và chết, và tôi cũng muốn nói về điều gì chúng ta gọi là tình yêu.

Chúng ta không đang quan tâm đến những ý tưởng. Những ý tưởng là tư tưởng đã được tổ chức, và tư tưởng không giải quyết được những vấn đề tâm lý sâu thẳm của chúng ta. Điều gì thực sự xóa sạch những vấn đề của chúng ta là giáp mặt chúng, không phải qua bức màn của tư tưởng nhưng tiếp xúc trực tiếp và toàn sinh lực cùng chúng, thực sự đang thấy và đang cảm thấy sự kiện. Nếu tôi được phép sử dụng từ ngữ, người ta phải đầy cảm xúc – không phải cảm tính nhưng cảm xúc – tiếp xúc cùng sự kiện. Nếu chúng ta phụ thuộc vào tư tưởng, dù khôn ngoan, dù tổ chức tốt, dù có học thức, có lý luận, lý lẽ, hợp lý đến chừng nào chăng nữa, những vấn đề tâm lý của chúng ta sẽ không bao giờ được giải quyết. Bởi vì chính tư tưởng tạo ra tất cả những vấn đề của chúng ta. Một người thực sự muốn tìm hiểu toàn vấn đề của chết này và không tẩu thoát khỏi nó phải tự tìm ra cho chính mình bằng cách nào tư tưởng tạo ra thời gian, và bằng cách nào tư tưởng cũng ngăn cản chúng ta không hiểu rõ ý nghĩa, sự quan trọng, và sự phong phú của chết.

Hầu hết chúng ta đều sợ hãi chết, và chúng ta cố gắng tẩu thoát khỏi sợ hãi đó bằng cách lý luận chết và bám vào vô số những niềm tin, lý luận hay không lý luận, lại nữa được sáng chế bởi tư tưởng. Dường như đối với tôi, muốn tìm hiểu vấn đề của chết này đòi hỏi một cái trí không chỉ có lý luận, hợp lý, thông minh, nhưng cũng có thể quan sát trực tiếp sự kiện, thấy chết như nó là và không bị che lấp bởi sợ hãi.

Muốn hiểu rõ sợ hãi, chúng ta phải hiểu rõ thời gian. Tôi không có ý nói về thời gian bởi đồng hồ, thời gian tuần tự. Nó rất đơn giản; nó thuộc máy móc; không có gì cần phải hiểu rõ. Tôi đang nói về thời gian tâm lý: nhìn lại nhiều ngày hôm qua, tất cả những việc mà chúng ta đã biết, đã cảm thấy, đã thụ hưởng, đã thâu lượm, và đã lưu trữ trong ký ức. Sự hồi tưởng của quá khứ định hình hiện tại của chúng ta, mà luân phiên được chiếu rọi vào tương lai. Toàn qui trình này là thời gian tâm lý, mà tư tưởng bị trói buộc. Tư tưởng là kết quả của hôm qua lướt qua hôm nay sang ngày mai. Tư tưởng của tương lai bị quy định bởi hiện tại, mà lại nữa bị quy định bởi quá khứ.

Quá khứ được cấu thành từ những sự việc mà cái trí tầng ý thức bên ngoài đã học hành ở trường, những công việc nó có, hiểu biết kỹ thuật nó đã thâu lượm, và vân vân, tất cả điều đó là sự tiến hành thuộc máy móc của ghi lại; nhưng nó cũng được cấu thành từ hiểu biết tâm lý, những sự việc người ta đã trải nghiệm và đã lưu trữ, những kỷ niệm được giấu giếm sâu thẳm trong cái trí tầng ý thức bên trong. Hầu hết chúng ta không có thời gian để tìm hiểu tầng bên trong; chúng ta quá bận rộn, quá lao xao bởi những hoạt động hàng ngày của chúng ta; thế là tầng bên trong đưa ra những gợi ý, những bóng gió trong hình thức của những giấc mộng, và sau đó những giấc mộng này cần sự diễn giải.

Tất cả việc này, cả sự tiến hành của tầng ý thức bên ngoài lẫn bên trong, là thời gian tâm lý – thời gian như hiểu biết, thời gian như trải nghiệm, thời gian như khoảng cách giữa cái gì là và cái gì nên là, thời gian như một phương tiện để đến, để thành công, để mãn nguyện, để trở thành. Cái trí tầng ý thức bên ngoài bị định hình bởi bên trong, và rất khó khăn khi muốn hiểu rõ những động cơ, những mục đích, và những ép buộc được che giấu của tầng ý thức bên trong, bởi vì chúng ta không thể tìm được đường vào tầng bên trong qua nỗ lực của ý thức bên ngoài. Nó phải được tiếp cận một cách tiêu cực, không phải bởi sự tiến hành tích cực của phân tích. Người phân tích bị quy định bởi những kỷ niệm của anh ấy, và sự tiếp cận tích cực của anh ấy đến cái gì đó mà anh ấy không biết và hoàn toàn không nhận thức được chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.

Tương tự như thế, chúng ta phải tiếp cận chết một cách tiêu cực, bởi vì chúng ta không biết nó là gì. Chúng ta đã trông thấy những người khác chết. Chúng ta biết có chết qua bệnh tật, tuổi già, và suy sụp, chết qua tai nạn, và chết với một mục đích, nhưng chúng ta thực sự không biết chết có nghĩa gì. Chúng ta có lẽ lý luận về chết. Khi thấy tuổi già ập vào chúng ta – lão suy từ từ, mất trí nhớ của chúng ta, và vân vân – chúng ta có lẽ nói, “Ồ, sống là một qui trình của sanh, tăng trưởng, và suy sụp, và sự kết thúc của bộ máy vật chất là điều không tránh khỏi.” Nhưng điều đó không mang lại hiểu rõ sâu sắc về chết là gì.

Chết phải là cái gì đó lạ thường, giống như sống. Sống là một sự việc tổng thể. Đau khổ, đau đớn, phiền muộn, vui vẻ, những ý tưởng vô lý, chiếm hữu, ganh ghét, thương yêu. Sự đau khổ dày vò của cô độc – tất cả điều đó là sống. Và muốn hiểu rõ chết chúng ta phải hiểu rõ tổng thể của sống, không phải chỉ lấy một mảnh của nó và sống cùng mảnh đó, như hầu hết chúng ta đều làm. Trong ngay hiểu rõ về sống có hiểu rõ về chết, bởi vì sống chết không tách lìa.

Chúng ta không quan tâm đến những ý tưởng hay những niềm tin, bởi vì chúng không giải quyết được gì cả. Một người muốn biết chết có nghĩa gì, muốn thực sự trải nghiệm và biết ý nghĩa trọn vẹn của nó, phải ý thức được chết trong sống; đó là anh ấy phải chết hàng ngày. Thuộc thân thể, bạn không thể chết mỗi ngày, mặc dù có một thay đổi sinh lý đang xảy ra mỗi khoảnh khắc. Tôi đang nói về chết thuộc tâm lý, phía bên trong. Những sự việc chúng ta đã thâu lượm như trải nghiệm, như hiểu biết, những vui thú và những đau khổ chúng ta đã biết – chết đi tất cả việc đó.

Nhưng bạn thấy, hầu hết chúng ta không muốn chết. Bởi vì chúng ta mãn nguyện với sống của chúng ta. Và sống của chúng ta rất xấu xa; nó rất keo kiệt, ganh ghét, một xung đột liên tục. Sống của chúng ta là một đau khổ, với thỉnh thoảng những lóe sáng của hân hoan mà chẳng mấy chốc chỉ trở thành một kỷ niệm, và chết của chúng ta cũng là một đau khổ. Nhưng chết thực sự là thuộc tâm lý chết đi mọi thứ chúng ta biết – mà nghĩa là có thể đối diện ngày mai nhưng không biết ngày mai là gì. Đây không là một lý thuyết hay một niềm tin tưởng tượng. Hầu hết mọi người sợ hãi chết và vì vậy tin tưởng đầu thai, sống lại, hay bám vào hình thức nào đó của niềm tin. Nhưng một người thực sự muốn tìm ra chết là gì không quan tâm đến niềm tin. Chỉ tin tưởng là thiếu chín chắn. Muốn tìm ra chết là gì, bạn phải biết làm thế nào để chết phần tâm lý.

Tôi không hiểu liệu bạn đã có khi nào thử chết đi cái gì đó rất gần gũi với bạn và cho bạn vui thú cực độ – chết đi nó, không lý do, không buộc tội hay một mục đích, nhưng chỉ chết đi nó như một chiếc lá rụng khỏi cái cây. Nếu bạn có thể chết đi trong cách này mỗi ngày, từng phút, vậy thì bạn sẽ biết sự kết thúc của thời gian tâm lý. Và dường như đối với tôi, một cái trí chín chắn, một cái trí muốn thực sự tìm hiểu, chết trong ý nghĩa này là rất quan trọng. Bởi vì tìm hiểu không là tìm kiếm có một động cơ. Bạn không thể tìm ra cái gì là sự thật nếu bạn có một động cơ, hay nếu bạn bị quy định bởi một niềm tin, bởi một giáo điều. Bạn phải chết đi tất cả thứ đó – chết đi xã hội, chết đi tôn giáo có tổ chức, chết đi vô vàn hình thức của an toàn mà cái trí bám vào.

Những niềm tin và những giáo điều trao tặng sự an toàn tâm lý. Chúng ta thấy rằng thế giới đang trong một hỗn loạn; có sự hỗn loạn toàn cầu, và mọi thứ đang thay đổi rất mau lẹ. Bởi vì thấy tất cả việc này, chúng ta muốn cái gì đó lâu dài, vĩnh cửu, thế là chúng ta bám vào một niềm tin, một lý tưởng, một giáo điều, hình thức nào đó của an toàn tâm lý; và việc này ngăn cản chúng ta không thực sự tìm ra cái gì là sự thật.

Muốn khám phá cái gì đó mới mẻ, bạn phải đến với nó bằng một cái trí hồn nhiên, một cái trí trong sáng, tươi trẻ, không bị vấy bẩn bởi xã hội. Xã hội là cấu trúc tâm lý của ganh ghét, tham lam, tham vọng, quyền lực, thanh danh; và muốn tìm ra cái gì là sự thật, người ta phải chết đi toàn cấu trúc đó, không phải lý thuyết, không phải trừu tượng, nhưng thực sự chết đi ganh ghét, chết đi sự theo đuổi của “nhiều hơn.” Chừng nào còn có sự theo đuổi của “nhiều hơn” trong bất kỳ hình thức nào, không thể có sự hiểu rõ về những hàm ý vô cùng của chết. Tất cả chúng ta đều biết rằng chẳng chóng thì chầy chúng ta sẽ chết phần thân thể, rằng thời gian đang trôi qua, và rằng chết sẽ chộp lấy chúng ta; và, bởi vì sợ hãi, chúng ta sáng chế những lý thuyết, chúng ta xếp đặt những ý tưởng về chết, chúng ta lý luận nó. Nhưng đó không là sự hiểu rõ về chết.

Bạn không thể tranh luận với chết phần thân thể; bạn không thể yêu cầu chết cho bạn sống một ngày nữa. Chết là kết thúc tuyệt đối. Và liệu không thể chết đi ganh ghét trong cùng cách, không tranh luận, không hỏi việc gì sẽ xảy đến cho bạn ngày mai nếu bạn chết đi ganh ghét, hay tham vọng? Thật ra, điều này có nghĩa hiểu rõ toàn qui trình của thời gian tâm lý.

Chúng ta luôn luôn suy nghĩ trong thời hạn của thời gian, phần tâm lý đang lập kế hoạch cho ngày mai. Tôi không đang nói về kế hoạch thực tế; đó là vấn đề hoàn toàn khác hẳn. Nhưng phần tâm lý chúng ta muốn là cái gì đó ngày mai. Cái trí ranh mãnh theo đuổi điều gì nó đã là và điều gì nó sẽ là, và sống của chúng ta được xây dựng trên theo đuổi đó. Chúng ta là kết quả của ký ức của chúng ta, ký ức là thời gian tâm lý. Và liệu có thể không cần nỗ lực, rất thanh thản, chết đi toàn qui trình đó?

Tất cả các bạn đều muốn chết đi cái gì đó gây đau khổ, và việc đó tương đối dễ dàng. Nhưng tôi đang nói về chết đi cái gì đó mà cho bạn vui thú lớn lao, một ý thức vô cùng của sự phong phú bên trong. Nếu bạn chết đi ký ức của một trải nghiệm hưng phấn, chết đi những tầm nhìn của bạn, chết đi những hy vọng và những mãn nguyện của bạn, lúc đó bạn bị giáp mặt một ý thức lạ thường của cô độc, và bạn không còn gì để bấu víu nữa. Những nhà thờ, những quyển sách, những vị thầy, những hệ thống triết học – bạn không thể tin cậy bất kỳ điều gì trong chúng nữa, mà là thực hiện đúng nhất, bởi vì nếu bạn tin cậy chúng, bạn vẫn còn sợ hãi, bạn vẫn còn ganh ghét, tham lam, tham vọng, tìm kiếm quyền hành.

Bất hạnh thay, khi chúng ta không tin cậy bất kỳ điều gì, thường thường chúng ta trở nên cay đắng, yếm thế, thiển cận, và rồi chúng ta chỉ sống từ ngày này qua ngày khác, nói rằng việc đó đủ rồi. Nhưng dù cái trí có lẽ lanh lợi và triết lý bao nhiêu, việc đó tạo ra một sống rất nông cạn và nhỏ nhen. Tôi không hiểu liệu bạn đã từng thử việc này, nếu bạn đã từng thử nghiệm nó: không cần nỗ lực chết đi mọi thứ mà bạn biết, không giả dối nhưng thực sự, mà không hỏi điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai. Nếu bạn thực hiện được việc này, bạn sẽ đến một ý thức lạ thường của cô độc, một trạng thái của trống không nơi không có ngày mai – và nếu bạn rà soát nó, nó không là trạng thái vô vọng ảm đạm. Trái lại!

Rốt cuộc, hầu hết chúng ta đều cô độc kinh khủng. Bạn có lẽ có một nghề nghiệp lý thú, bạn có lẽ có một gia đình và nhiều tiền bạc, bạn có lẽ có sự hiểu biết rộng rãi của một cái trí có học thức; nhưng nếu bạn xua đuổi đi tất cả điều đó khi bạn ở một mình, bạn sẽ biết ý thức lạ thường của cô độc này.

Nhưng bạn thấy, tại một khoảnh khắc như thế chúng ta trở nên rất kinh hoàng. Chúng ta không bao giờ đối diện cô độc đó; chúng ta không bao giờ rà soát trống không đó để phát giác nó là gì. Chúng ta bật máy thu thanh, đọc một quyển sách, huyên thuyên với bạn bè, đi nhà thờ, đi xem phim, uống rượu – tất cả việc đó đều cùng một mức độ, bởi vì tất cả chúng đều trao tặng một tẩu thoát. Thượng đế là một tẩu thoát vui vẻ, giống như nhậu nhẹt. Khi cái trí đang tẩu thoát, không có nhiều khác biệt giữa Thượng đế và nhậu nhẹt. Có lẽ theo xã hội, nhậu nhẹt không tốt lắm, nhưng sự tẩu thoát đến Thượng đế cũng có phương hại của nó.
Vậy là, muốn hiểu rõ chết, không phải bằng lời nói hay lý thuyết nhưng thực sự trải nghiệm nó, người ta phải chết đi ngày hôm qua, chết đi tất cả những kỷ niệm của người ta, những vết thương tâm lý của người ta, nịnh nọt, lăng nhục, nhỏ nhen, ganh ghét – người ta phải chết đi tất cả việc đó, mà là chết đi chính người ta. Bởi vì tất cả việc đó là người ta. Và vậy là bạn sẽ tìm ra, nếu bạn đã tiến xa như thế, rằng có một cô đơn mà không phải là cô độc. Cô độc và cô đơn là hai trạng thái khác hẳn. Nhưng bạn không thể thẩm thấu cô đơn nếu không rà soát và hiểu rõ trạng thái cô độc đó mà trong nó sự liên hệ không còn ý nghĩa gì cả. Liên hệ của bạn với người vợ của bạn, với người chồng của bạn, với người con trai của bạn, với người con gái của bạn, bạn bè của bạn, công việc của bạn – không có điều gì trong những liên hệ này còn ý nghĩa gì cả khi bạn cô độc trọn vẹn. Tôi chắc chắn một số các bạn đã trải nghiệm trạng thái đó. Và khi bạn có thể rà soát nó và vượt khỏi nó, khi bạn không còn bị kinh hãi bởi từ ngữ cô độc đó, khi bạn chết đi tất cả những sự việc bạn đã biết, và xã hội không còn tác động bạn nữa, lúc đó bạn sẽ biết cái khác lạ. Xã hội tác động bạn chỉ khi nào bạn còn lệ thuộc vào nó phần tâm lý. Xã hội không còn gây ảnh hưởng vào bạn gì cả từ khoảnh khắc bạn cắt đứt mấu chốt tâm lý mà cột chặt bạn vào nó. Vậy là bạn ra khỏi những quy định của sự kính trọng và luân lý thuộc xã hội. Nhưng để rà soát cô độc đó mà không tẩu thoát, mà không giải thích bằng từ ngữ, mà ở cùng nó trọn vẹn, đòi hỏi nhiều năng lượng. Bạn cần năng lượng để sống cùng cái gì đó xấu xa nhưng không cho phép nó làm hư hỏng bạn, giống như bạn cần năng lượng để sống cùng cái gì đó đẹp đẽ nhưng không thân thuộc với nó. Năng lượng không vấy bẩn đó là cô đơn mà bạn phải đến.

Và từ tiêu cực đó, từ trống không trọn vẹn đó, có sáng tạo. Chắc chắn tất cả sáng tạo đều xảy ra trong trống không, không phải khi cái trí của bạn đầy ắp. Chết có ý nghĩa chỉ khi nào bạn chết đi tất cả những ảo tưởng của bạn, những giả tạo của bạn, chết đi vô vàn hồi tưởng của bạn. Vậy là có cái gì đó vượt khỏi thời gian, cái gì đó bạn không thể tiếp cận nếu bạn có sợ hãi, nếu bạn bấu víu những niềm tin, nếu bạn bị trói buộc trong đau khổ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/02/2015(Xem: 7036)
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:
12/02/2015(Xem: 10747)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng:”Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”; nghĩa là: “sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”. Điều nầy có nghiã là: khi chúng ta được sanh ra trong cuộc đời nầy, cha mẹ, Bác sĩ có thể đóan chừng ngày tháng nào chúng ta ra đời. Vì họ là những chủ nhân của việc tạo dựng ra sanh mạng của chúng ta; nhưng sự chết, không ai có thể làm chủ được và không ai trong chúng ta, là những người thường, có thể biết trước được rằng: ngày giờ nào chúng ta phải ra đi khỏi trần thế nầy cả. Do vậy Đạo Phật gọi cuộc đời nầy là vô thường.
05/02/2015(Xem: 6639)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập
18/01/2015(Xem: 5903)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.
07/01/2015(Xem: 5640)
Ở quê tôi, một số gia đình khi người thân mất, có mời Ban hộ niệm đến để hộ niệm. Có điều, những người trong Ban hộ niệm bắt buộc phải niệm (A Di Đà Phật) đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi, có khi quá 24 giờ mới được khâm liệm. Tôi muốn hỏi làm sao để biết người chết được vãng sanh để dừng hộ niệm? Để quá lâu như thế mới khâm liệm có ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của mọi người không? (HUỆ QUANG, Bưu điện Ngã Bảy, Hậu Giang)
22/12/2014(Xem: 24057)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
13/12/2014(Xem: 7575)
Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179. Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.
24/11/2014(Xem: 8542)
A NEWBORN baby may have been trapped in a storm water drain on the side of a Sydney motorway for up to five days before he was found by passing cyclists yesterday. The malnourished baby boy was found abandoned at the bottom of a 2.4m drain, covered by a concrete slab, after a cyclist and his daughter heard the baby’s screams early Sunday morning.
17/11/2014(Xem: 34575)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
12/11/2014(Xem: 8203)
Sống tròn 100 tuổi, bà chưa một lần tắm gội, chưa một lần uống thuốc, đi viện, cũng không ăn cơm, nhưng cơ thể vẫn thơm tho, khỏe mạnh, minh mẫn tới tận ngày mất. Cuộc đời gắn với chữ “không” cùng những khả năng kỳ lạ, không lời giải trong việc trị bệnh, tiên đoán thời thế bằng kiến thức tâm linh khiến bà trở thành một nhân vật huyền thoại, được môn đệ từ khắp nơi thờ phụng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567