Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Bombay, 14 tháng ba 1948

09/07/201100:31(Xem: 3618)
3. Bombay, 14 tháng ba 1948

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Bombay, 14 tháng ba 1948

Người hỏi: Sự kiện chết rành rành trước mặt mọi người, tuy nhiên bí mật của nó chưa bao giờ được giải đáp. Nó phải luôn luôn như thế hay sao?

Krishnamurti: Tại sao có một sợ hãi chết? Khi chúng ta bám vào sự tiếp tục, có sợ hãi chết. Hành động không trọn vẹn mang lại sợ hãi chết. Có sợ hãi chết chừng nào còn có ham muốn cho sự tiếp tục trong cá tánh, sự tiếp tục trong hành động, trong khả năng, trong danh tánh, và vân vân. Chừng nào còn có hành động đang tìm kiếm một kết quả, phải có người suy nghĩ đang tìm kiếm sự tiếp tục. Sợ hãi hiện diện khi tiếp tục này bị đe dọa qua chết. Vì vậy, có sợ hãi chết chừng nào còn có ham muốn cho sự tiếp tục.

Cái mà tiếp tục gây phân rã. Bất kỳ hình thức nào của tiếp tục, dù cao cả đến chừng nào, là một qui trình gây phân rã. Trong tiếp tục không bao giờ có mới mẻ lại, và chỉ trong mới mẻ lại có tự do khỏi sợ hãi chết. Nếu chúng ta thấy sự thật của điều này, lúc đó chúng ta sẽ thấy sự thật trong điều giả dối. Vậy thì sẽ có giải thoát khỏi điều giả dối. Vậy thì sẽ không có sợ hãi chết. Vậy là sống, trải nghiệm, đều ở trong hiện tại và không là một phương tiện của tiếp tục.

Liệu có thể sống từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc bằng mới mẻ lại? Có mới mẻ lại chỉ trong kết thúc và không trong tiếp tục. Trong khoảng ngừng giữa sự chấm dứt và sự bắt đầu của một vấn đề mới, có mới mẻ lại.
Chết, trạng thái của không tiếp tục, trạng thái của tái sanh, là cái không biết được. Chết là cái không biết được. Cái trí, mà là kết quả của sự tiếp tục, không thể biết cái không biết được. Nó chỉ có thể biết cái đã được biết. Nó chỉ có thể hành động và có sự tồn tại của nó trong cái đã được biết, mà là liên tiếp. Vì vậy cái đã được biết sợ hãi cái không biết được. Cái đã được biết không bao giờ có thể biết cái không biết được, và thế là chết mãi mãi là điều bí mật. Nếu có một kết thúc từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, từ ngày này sang ngày khác, trong kết thúc này cái không biết được hiện diện.

Bất diệt không là sự tiếp tục của cái “tôi”. Cái tôi và cái của tôi thuộc thời gian, là kết quả của hành động hướng đến một kết thúc. Vì vậy không có sự liên hệ giữa cái tôi, cái của tôi và cái bất diệt, không thời gian. Chúng ta thích nghĩ có một liên hệ, nhưng đây là một ảo tưởng. Cái không chết không thể bị bao bọc trong cái có chết. Cái không đo lường được không thể bị trói buộc trong mạng lưới của thời gian.

Có sợ hãi chết nơi nào có tìm kiếm sự mãn nguyện. Mãn nguyện không có kết thúc. Ham muốn đang tìm kiếm và đang thay đổi liên tục mục tiêu của mãn nguyện, và vì vậy nó bị trói buộc trong mạng lưới của thời gian. Vì vậy tìm kiếm sự mãn nguyện là một hình thức khác của tiếp tục, và sự tuyệt vọng tìm kiếm chết như một phương tiện của tiếp tục. Sự thật không là tiếp tục. Sự thật là một trạng thái của đang là, và đang là là hành động không thời gian. Đang là này có thể trải nghiệm được chỉ khi nào ham muốn, mà sinh ra sự tiếp tục, hoàn toàn và trọn vẹn được hiểu rõ. Tư tưởng được thành lập trên nền tảng quá khứ, vì vậy tư tưởng không thể biết cái không biết được, cái không đo lường được. Qui trình tư tưởng phải kết thúc. Sau đó chỉ duy nhất cái không thể biết được hiện diện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/02/2015(Xem: 7021)
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:
12/02/2015(Xem: 10732)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng:”Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”; nghĩa là: “sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”. Điều nầy có nghiã là: khi chúng ta được sanh ra trong cuộc đời nầy, cha mẹ, Bác sĩ có thể đóan chừng ngày tháng nào chúng ta ra đời. Vì họ là những chủ nhân của việc tạo dựng ra sanh mạng của chúng ta; nhưng sự chết, không ai có thể làm chủ được và không ai trong chúng ta, là những người thường, có thể biết trước được rằng: ngày giờ nào chúng ta phải ra đi khỏi trần thế nầy cả. Do vậy Đạo Phật gọi cuộc đời nầy là vô thường.
05/02/2015(Xem: 6618)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập
18/01/2015(Xem: 5894)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.
07/01/2015(Xem: 5625)
Ở quê tôi, một số gia đình khi người thân mất, có mời Ban hộ niệm đến để hộ niệm. Có điều, những người trong Ban hộ niệm bắt buộc phải niệm (A Di Đà Phật) đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi, có khi quá 24 giờ mới được khâm liệm. Tôi muốn hỏi làm sao để biết người chết được vãng sanh để dừng hộ niệm? Để quá lâu như thế mới khâm liệm có ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của mọi người không? (HUỆ QUANG, Bưu điện Ngã Bảy, Hậu Giang)
22/12/2014(Xem: 23857)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
13/12/2014(Xem: 7565)
Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179. Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.
24/11/2014(Xem: 8525)
A NEWBORN baby may have been trapped in a storm water drain on the side of a Sydney motorway for up to five days before he was found by passing cyclists yesterday. The malnourished baby boy was found abandoned at the bottom of a 2.4m drain, covered by a concrete slab, after a cyclist and his daughter heard the baby’s screams early Sunday morning.
17/11/2014(Xem: 34543)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
12/11/2014(Xem: 8190)
Sống tròn 100 tuổi, bà chưa một lần tắm gội, chưa một lần uống thuốc, đi viện, cũng không ăn cơm, nhưng cơ thể vẫn thơm tho, khỏe mạnh, minh mẫn tới tận ngày mất. Cuộc đời gắn với chữ “không” cùng những khả năng kỳ lạ, không lời giải trong việc trị bệnh, tiên đoán thời thế bằng kiến thức tâm linh khiến bà trở thành một nhân vật huyền thoại, được môn đệ từ khắp nơi thờ phụng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567