Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Saanen, 27 tháng bảy 1972

09/07/201100:31(Xem: 3368)
2. Saanen, 27 tháng bảy 1972

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Từ quyển Đường bay của Đại bàng: Sự phân chia

Saanen, 27 tháng bảy 1972

Bạn có phiền khi tìm hiểu toàn nghi vấn của chết là gì này hay không? Nhiều người ở đây là những người trẻ tuổi, và các bạn có lẽ sống rất lâu, và cũng có nhiều người già ở đây, kể cả tôi; chúng tôi là những người đang rời đi và các bạn là những người đang đến, nhưng các bạn, những người đang đến, đang rời đi, và các bạn cũng phải đối diện chết. Vậy là chúng ta sẽ tìm hiểu nó; đó là chúng ta sẽ có một thấu triệt nó. Bạn sẽ không thể có một thấu triệt nó nếu có bất kỳ loại sợ hãi nào, và sợ hãi xảy ra chỉ khi nào bạn bị quyến luyến đến những sự việc đã được biết. Những sự việc đã được biết là những hình ảnh của bạn, hiểu biết của bạn, những quyến luyến của bạn, đồ đạc của bạn, những quan điểm, những nhận xét, văn hóa của bạn, nhút nhát, lễ phép của bạn – bạn theo kịp chứ – tất cả việc đó là lãnh vực của cái đã được biết. Nếu bạn sợ hãi, bạn sẽ không bao giờ có một thấu triệt toàn nghi vấn của chết này.

Tôi muốn tìm ra, giống như bạn phải tìm ra, chết là gì. Tại sao tôi sợ hãi chết? Tại sao tôi sợ hãi tuổi già và bỗng nhiên đến một kết thúc? Nó là một công việc rất phức tạp, hiểu rõ tổng thể của chết là gì, rất phức tạp. Chính sự phức tạp của nó làm cho người ta sợ hãi bởi vì nó giống như bộ máy rất phức tạp; bạn không dám tiếp cận nó, bởi vì bạn không biết gì về nó. Nhưng nếu bạn tiếp cận nó rất đơn giản, mà có nghĩa thực sự bạn đang cố gắng học hỏi về nó, vậy là bạn đang tận hưởng nó – không phải ý tưởng về chết nhưng đang tận hưởng sự suy xét, sự tiếp cận, sự tìm hiểu. Lúc đó bạn đang học hỏi, và bạn không thể học hỏi nếu bạn không hạnh phúc; vì vậy bạn không thể nào có sợ hãi. Đó là bước cơ bản.

Vì vậy nếu bạn thực sự muốn tìm hiểu điều này, bạn phải rất rõ ràng rằng cái trí của bạn, mà có nghĩa tư tưởng của bạn, không tạo ra sợ hãi, sợ hãi của nó suy nghĩ đến một kết thúc là gì, của nó suy nghĩ thâm nhập vào cái gì đó mà nó không biết là gì.

Bây giờ trước hết tôi phải tìm ra – bởi vì tôi không sợ hãi, bạn hiểu chứ, tôi không thích bị sợ hãi chút nào cả – liệu có bất kỳ cái gì bất tử như cái “tôi.” “Bất tử” là cái có một tiếp tục. Tôi có thể để lại đồ đạc của tôi cho người anh, cậu con trai của tôi, hay bất kỳ thứ gì, và vì vậy nó có thể ở lại trong gia đình, hay được bán trong một cửa hàng đồ cổ và người nào đó mua nó. Tôi muốn tìm ra liệu có bất kỳ cái gì đó cốt lõi, tiếp tục, bất tử như cái “tôi” mà sợ hãi chết.

Liệu có bất kỳ cái gì bất tử trong tôi, trong bạn? – bất tử trong ý nghĩa của sự tiếp tục trong thời gian, một khoảng dài trong không gian như cái “tôi”? Cái “tôi” là cái tên – đúng chứ? Cái tên đó có bất tử không? Hay tư tưởng cho sự bất tử đến cái tên? Trong chính nó nó không có bất tử, nhưng tư tưởng, bởi vì tự nhận dạng chính nó với thân thể, với hình ảnh, với hiểu biết, với tất cả những trải nghiệm, những đau khổ, nhũng vui thú, những phiền muộn, bởi vì tự nhận dạng chính nó với những điều đó, nhận dạng đó cho nó một chất lượng của bất tử. Trái lại liệu có bất kỳ cái gì bất tử, một cái gì đó có một tiếp tục bất kể sự không tồn tại của cái tôi? Bạn quan tâm tất cả điều này chứ? Bạn sẽ đối diện chết, dù bạn thích nó hay không. Hoặc bạn sẽ đối diện nó bất ngờ, hoặc qua bệnh tật, hoặc qua sự suy nhược tự nhiên của các cơ quan thân thể. Chết là điều không tránh khỏi. Bạn có thể lẩn tránh nó bằng cách sống lâu hơn, khỏe mạnh hơn, uống nhiều thuốc men hơn, và vân vân. Nhưng ở khúc cuối có sự kiện này – nếu tôi không tự tìm ra cho chính tôi liệu có cái gì đó bất tử vượt khỏi chết, mà có nghĩa không thời gian, mà không thể bị làm sai lạc bởi văn minh, văn hóa, cái gì đó mà bất kể mọi trải nghiệm, hiểu biết, những kích thích, những phản ứng vẫn có sự tồn tại riêng của nó và tiếp tục như là cái “tôi”. Thế là con người đã nói, “Không có cái ‘tôi’ nhưng có Thượng đế.” Ở Châu á họ giải thích nó cách khác, nhưng nó vẫn còn là hành động của tư tưởng mà nói rằng, “Có linh hồn.” Nó là một hành động của tư tưởng mà nói rằng, “Có cái Tối linh,” như họ nói ở Ấn độ. Nó vẫn còn là hành động của tư tưởng, tư tưởng mà sợ hãi cái không biết được. Tư tưởng là cái đã được biết, tư tưởng là thời gian, tư tưởng là cũ kỹ, tư tưởng không bao giờ được tự do. Bởi vì tư tưởng là phản ứng của ký ức, trải nghiệm, hiểu biết, vì vậy nó luôn luôn cũ kỹ, không bao giờ được tự do, và bởi vì phụ thuộc thời gian nó không chắc chắn về cái không biết được, đó là, vượt khỏi thời gian. Thế là nó nói, “Tôi không quan trọng; cái ‘tôi’ là thoáng qua, đang được xếp đặt vào chung bởi văn hóa, bởi thời gian, bởi ngẫu nhiên, bởi gia đình, bởi truyền thống; nó đã phát triển những khuynh hướng, những đặc điểm nào đó; nó có tình trạng bị quy định riêng của nó, nhưng vượt khỏi tất cả điều đó còn có linh hồn, còn có cái gì đó vô hạn trong tôi mà là bất tử.” Tất cả điều đó là qui trình của tư tưởng. Và tư tưởng, bị đối diện với cái không thể tránh khỏi, mà là chết, kết thúc, nói rằng, “Tôi không thể chịu đựng nó;” vì vậy nó nói tiếp, “Phải có một đời sống tương lai,” hay nó nói, “Tôi tin tưởng có một đời sống tương lai,” hay, “Có thiên đàng, và tôi sẽ ngự bên cạnh Thượng đế” – nó muốn được thanh thản khi bị đối diện với cái gì đó hoàn toàn không biết được. Và có hàng ngàn người sẽ cho bạn sự thanh thản. Tất cả nhà thờ có tổ chức trao tặng việc đó; bạn muốn việc đó, và thế là chúng tồn tại.

Bây giờ nếu bạn thấy cái cách nó vẫn còn là hành động của tư tưởng và vì vậy được đặt nền tảng trên sợ hãi, trên tưởng tượng, trên quá khứ, mà là lãnh vực của cái đã được biết. Đó là, tôi bị quyến luyến đến lãnh vực của cái đã được biết, với tất cả những khác biệt của nó, những thay đổi của nó, những hoạt động của nó, và điều gì tôi đòi hỏi là sự thanh thản. Bởi vì tôi đã tìm được sự thanh thản trong quá khứ, tôi đã sống trong lãnh vực của cái đã được biết; đó là lãnh thổ của tôi, tôi đã biết những biên giới, những giới hạn của nó. Những biên giới là ý thức của tôi, mà là nội dung của nó, tôi hoàn toàn thân thuộc với tất cả việc đó, và chết là cái gì đó tôi không biết; tôi không muốn nó.

Vì vậy tôi tự hỏi chính tôi: cuộc sống của tôi đã là quá khứ; tôi sống trong quá khứ; tôi hành động trong quá khứ; đó là cuộc sống của tôi. Hãy lắng nghe điều này! Cuộc sống của tôi, đang sống trong quá khứ, là một cuộc sống chết rồi. Bạn hiểu chứ? Cái trí của tôi, mà sống trong quá khứ, là một cái trí chết rồi. Và tư tưởng nói, “Đó không là chết; tương lai là chết.” Vậy là tôi thấy điều này như một sự kiện. Bạn theo kịp chứ? Tôi thấy điều này như cái gì đó đúng thực lạ thường. Vì vậy cái trí, nhận ra điều đó, thực sự chết đi quá khứ; nó sẽ sử dụng quá khứ, nhưng nó đã không còn bị kềm kẹp bởi quá khứ; quá khứ đã mất đi những giá trị của nó, sự lôi cuốn của nó, sức sống của nó. Thế là cái trí có năng lượng riêng của nó, mà không bị bắt nguồn từ quá khứ. Do đó sống là chết – bạn hiểu chứ? Do đó sống là tình yêu, mà là chết. Bởi vì nếu không có quyến luyến, lúc đó có tình yêu. Nếu không có quyến luyến đến quá khứ – quá khứ có giá trị của nó, mà có thể được sử dụng, mà phải được sử dụng như là hiểu biết – vậy là sống của tôi là một mới mẻ lại liên tục, là một chuyển động liên tục trong lãnh vực của cái không biết được mà trong đó có học hỏi, chuyển động. Vì vậy chết là trạng thái cô đơn kết thúc. Vì vậy có một loại sống hoàn toàn khác hẳn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/02/2015(Xem: 7031)
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:
12/02/2015(Xem: 10744)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng:”Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”; nghĩa là: “sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”. Điều nầy có nghiã là: khi chúng ta được sanh ra trong cuộc đời nầy, cha mẹ, Bác sĩ có thể đóan chừng ngày tháng nào chúng ta ra đời. Vì họ là những chủ nhân của việc tạo dựng ra sanh mạng của chúng ta; nhưng sự chết, không ai có thể làm chủ được và không ai trong chúng ta, là những người thường, có thể biết trước được rằng: ngày giờ nào chúng ta phải ra đi khỏi trần thế nầy cả. Do vậy Đạo Phật gọi cuộc đời nầy là vô thường.
05/02/2015(Xem: 6635)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập
18/01/2015(Xem: 5901)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.
07/01/2015(Xem: 5638)
Ở quê tôi, một số gia đình khi người thân mất, có mời Ban hộ niệm đến để hộ niệm. Có điều, những người trong Ban hộ niệm bắt buộc phải niệm (A Di Đà Phật) đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi, có khi quá 24 giờ mới được khâm liệm. Tôi muốn hỏi làm sao để biết người chết được vãng sanh để dừng hộ niệm? Để quá lâu như thế mới khâm liệm có ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của mọi người không? (HUỆ QUANG, Bưu điện Ngã Bảy, Hậu Giang)
22/12/2014(Xem: 24032)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
13/12/2014(Xem: 7572)
Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179. Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.
24/11/2014(Xem: 8533)
A NEWBORN baby may have been trapped in a storm water drain on the side of a Sydney motorway for up to five days before he was found by passing cyclists yesterday. The malnourished baby boy was found abandoned at the bottom of a 2.4m drain, covered by a concrete slab, after a cyclist and his daughter heard the baby’s screams early Sunday morning.
17/11/2014(Xem: 34571)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
12/11/2014(Xem: 8201)
Sống tròn 100 tuổi, bà chưa một lần tắm gội, chưa một lần uống thuốc, đi viện, cũng không ăn cơm, nhưng cơ thể vẫn thơm tho, khỏe mạnh, minh mẫn tới tận ngày mất. Cuộc đời gắn với chữ “không” cùng những khả năng kỳ lạ, không lời giải trong việc trị bệnh, tiên đoán thời thế bằng kiến thức tâm linh khiến bà trở thành một nhân vật huyền thoại, được môn đệ từ khắp nơi thờ phụng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567