Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Di hài còn nguyên vẹn của một nhà sư tịch diệt cách nay hai trăm năm

13/02/201506:22(Xem: 8239)
Di hài còn nguyên vẹn của một nhà sư tịch diệt cách nay hai trăm năm

 

            Di hài nguyên vẹn trong tư thế ngồi thiền của một nhà sư tịch diệt cách nay 200 năm vừa được tìm thấy ở Mông Cổ. Tờ báo Siberian Times bằng tiếng Anh của Nga phát hành ngày 02 tháng 2 năm 2015, đã đưa tin này trước nhất, và sau đó các hãng thông tấn, truyền hình và báo chí khắp nơi trên thế giới tiếp tục loan báo và đã gây ra một tiếng vang không nhỏ.   

 

1

 Nhuc Than Thien Su (1)

H.1: Di hài của của một nhà sư trong tư thế tọa thiền viên tịch cách nay 200 năm

được tìm thấy ở Mông Cổ (xin lưu ý là bàn tay trái để ngửa là thủ ấn trong lúc hành thiền, thủ ấn của bàn tay phải không trông thấy rõ trong hình trên đây)

 

            Khi vừa được thông báo về tin này thì Bác sĩ người Mỹ Barry Kerzin, một nhà sư tu tập theo Phật Giáo Tây Tạng và cũng là đệ tử của Đức Đạt-lai Lạt-ma, đã cho biết rằng: "Nếu một người tu tập hòa nhập được vào thể dạng tukdam (tukdam là một thể dạng thật sâu của thiền định thuộc quá trình của cái chết. Nếu một người tu tập cao thâm có thể lưu lại trong thể dạng này - có thể chỉ ngắn hạn hay thật lâu dài -  thì trong khoảng thời gian đó thân xác sẽ giữ được sự tươi tốt và không hề bị hư hoại. Thể dạng thiền định này còn được gọi là thể dạng của ánh sáng trong suốt xảy ra trong quá trình chuyển tiếp giữa cái chết và sự sinh gọi là bardo) và giữ được thật bền vững thể dạng này hơn ba tuần lễ thì có nghĩa là người này đã trở thành một vị Phật.... Thể dạng ấy có thể tạo ra các tác động đối với những người chung quanh khiến họ cảm nhận được một niềm hân hoan hiện ra trong nội tâm mình"

 

2   3

 Nhuc Than Thien Su (2)Nhuc Than Thien Su (3)

H.2&3: Đức Đạt-lai Lạt-ma và nhà sư bác sĩ Barry Kerzin

 

            Theo sự nhận xét của vị sáng lập và cũng là viện trưởng Viện Nghệ Thuật Phật Giáo Mông Cổ là Ganhugiyn Purevbata, thì "bàn tay trái để ngửa của di hài là thủ ấn cho biết là đang ở trong tình trạng hành thiền và thủ ấn của bàn tay phải thì nói lên sự thuyết giảng Kinh Hoa Sen". "Theo sự tin tưởng của Phật Giáo Tây Tạng" thì vị sư này "chưa phải là chết mà đang hành thiền" (tức là đang ở trong thể dạng tukdam).

 

            Gốc tích của vị sư này vẫn còn là một sự huyền bí. Di hài của ông đang được các bác sĩ giám định (trên phương diện pháp lý), các học giả Phật Giáo cũng như các khoa học gia khảo nghiệm, nhằm tìm cách xác định nguồn gốc và danh tính của ông. Di hài của ông được tìm thấy khá bất ngờ tại Songino Khairkhan, một thị trấn nhỏ ở tây bắc thủ đô Oulaan-Battaar. Báo Siberian Times của Nga và Đài BBC của Anh Quốc cũng như một số báo chí khác cho biết thêm là di hài của ông có thể đã được phát hiện ở một nơi khác và được mang đến gần thủ đô Ulaan-Bataar là nhằm mục đích đem bán. Một người đàn ông 45 tuổi, tình nghi chủ mưu việc này đã bị cảnh sát bắt giữ. Theo luật pháp của Mông Cổ thì người này có thể bị phạt 40.000 euros (khoảng gần 50.000 đô-la) và bị tù giam từ 5 đến 12 năm. Di hài của nhà sư này hiện đang được giao cho Trung Tâm Quốc Gia Giám Định Ulaan-Bataar) (Ulaanbataar National Centre of Forensic Expertise) thẩm định. Theo một viên chức dấu tên hé lộ cho biết thì di hài đã được tìm thấy trong một hang động ở một nơi mang tên là Kobdsk.


Nhuc Than Thien Su (4)Nhuc Than Thien Su (5)
4
  5

 

H4: Gian nhà nơi cất dấu di hài trước khi cảnh sát tìm thấy (The Siberian Times 02.02.2015)

H.5: Di hài đang được cảnh sát thu hồi (Báo Huffintong Post, 05.02.2015)


            Một số người cho rằng sở dĩ di hài đã được bảo toàn nguyên vẹn là nhờ vào tấm da thú khoác lên người và nhờ khí hậu gíá rét của vùng Sibera. Về tấm da thì hiện nay người ta cũng chưa xác định được là da của loài thú nào, có thể là da bò, ngựa hoặc lạc đà. Dầu sau thì khí hậu và tấm da cũng không hội đủ các điều khiện cần thiết để bảo quản tình trạng tươi tốt của di hài sau hai trăm năm. 

Một giả thiết về nguồn gốc của nhà sư trên đây

 

            Trong lúc chờ đợi kết quả khảo nghiệm, một số học giả và tăng đoàn lãnh đạo Phật Giáo Mông Cổ cho rằng vị sư này có thể là thầy của một vị lạt-ma nổi tiếng người Nga là Dashi-Dorzho Itigilov, vì di hài của nhà sư này dù đã tịch diệt 75 năm, nhưng khi được phát hiện vẫn còn giữ được sự tươi tốt của một người "vừa mới qua đời" và cũng ở trong tư thế tọa thiền. Sự phát hiện này đã xảy ra cách nay hơn 10 năm - một cách chính xác là ngày 11 tháng 9 năm 2002 - và đã gây ra một tiếng vang rất lớn trong dư luận thời bấy giờ. Hầu hết các hãng thông tấn, truyền hình và báo chí trên thế giới đều cũng đã đưa tin và bình luận rộng rãi. Vì thế thiết nghĩ cũng nên tìm hiểu thêm về sự phát hiện này vì đây cũng có thể là cách mang lại một vài hiểu biết thêm về sự kiện các nhà sư cao thâm - thuộc Phật Giáo Tây Tạng cũng như Thiền Tông - thường chọn sự ra đi của mình trong tư thế tọa thiền và giữ được thân xác lâu dài không bị hư hoại.

            Dashi-Dorzho Itigilov là một vị lạt-ma Nga gốc người xứ Cộng hòa tự trị Buryatia (Bouratie), thuộc nam Tây Bá Lợi Á (Siberia) sát với Mông Cổ. Ông sinh năm 1852, xuất gia lúc 16 tuổi, nhưng vẫn tiếp tục học thêm về y khoa và triết học tại đại học Phật Giáo Anninsky Datsan (nay đã hoang phế). Năm 1891 ông được tôn làm vị Lạt-ma Chambo thứ XII của Phật Giáo Nga và đảm trách chức vụ chủ tịch tổng hội Phật Giáo Nga, và cùng trong năm này ông đã chủ tọa lễ khánh thành ngôi chùa đầu tiên ở Âu Châu tại thành phố Saint-Pertersbourg. Ông từng được Nga Hoàng gắn huân chương năm 1917, và sau đó cũng đã được chính quyền Cộng Sản gắn huân chương tuyên dương ông do sự tham gia tích cực của ông trong việc chăm lo và săn sóc  thương binh trong Thế Chiến Thứ I.  

           

            Thế nhưng năm 1926 sau khi "chế độ cộng sản cứng rắn được thiết đặt", ông khuyên  các nhà sư hãy rời bỏ xứ sở của mình, và cứ để mặc ông lưu lại với một số đệ tử. Một năm sau, lúc ấy ông cũng đã 75 tuổi và cảm thấy ngày ra đi của mình đã đến, bèn sai các đệ tử tổ chức nghi lễ tiễn đưa ông. Thế nhưng họ nhất định không tuân vì thấy ông vẫn bình thường và khỏe mạnh. Một hôm ông lẳng lặng ngồi xuống hành thiền, nhiều vị lạt-ma khác thấy thế cũng ngồi theo. Được một lúc lâu thì ông ra đi, vẫn ngồi im thật vững vàng trong tư thế kiết già.  

            Trong di chúc để lại ông yêu cầu hãy chôn ông ở tư thế tọa thiền và sau ba mươi năm thì nên khai quật mộ ông. Các đệ tử liệm ông trong một quan tài - đúng hơn là một cái thùng lớn bằng gỗ thông - và chôn cất ông trong nghĩa trang của các vị lạt-ma tại một nơi gọi là Khukhe-Zurkhen thuộc nước Cộng hòa tự trị Buryatia cạnh biên giới Mông Cổ. Khi tường thuật về các sự kiện liên quan đến việc phát hiện di hài của nhà sư tịch diệt đã 200 năm trên đây, đài BBC cũng có nhắc đến việc phát hiện di hài nguyên vẹn của nhà sư Dashi-Dorzho Itigilov này và cho biết thêm: "Vào năm 1927, vị lạt-ma Dashi-Dorzho Itigilov từng dặn dò các đệ tử của mình là sau khi ông ra đi thì 30 năm sau hãy nên khai quật mộ ông".

            Năm 1955 - chỉ mới 28 năm sau khi ông mất - một số nhà sư và phật tử kín đáo khai quật mộ ông và nhận thấy di hài của ông "nguyên vẹn như một người còn sống", họ bèn mỏ muối vào quan tài và chôn cất trở lại. Thế nhưng họ đã phá bỏ mộ bia, chỉ vì lúc đó dù Staline đã chết, nhưng chế độ cộng sản vẫn vô cùng cứng rắn, vẫn tiếp tục đàn áp và tận diệt tôn giáo, và cũng kể từ đó câu chuyện về di hài của ông chỉ được truyền tụng kín đáo trong giới tu hành.

            Mãi đến năm 2002, mới có một vị lạt-ma trẻ tuổi là Bimba Dorzhiev nghĩ đến việc khai quật mộ ông xem sao. Vị lạt-ma này tìm được một người đã 88 tuổi biết nơi chôn cất  của vị lạt-ma Dashi-Dorzho. Ngày 11 tháng 9, ngôi mộ được khai quật lần thứ hai với sự chứng kiến của các vị chức sắc trong tăng đoàn Phật Giáo Nga, các khoa học gia, các bác sĩ giám định pháp lý và một nhiếp ảnh gia. Phúc trình chính thức cho biết là di hài của ông "tươi tốt như người vừa qua đời chưa quá 36 giờ", da dẻ và chân tay vẫn còn mềm mại.   

 Nhuc Than Thien Su (6)Nhuc Than Thien Su (7)

6  7

 

H.6: Di hài vị lạt-ma Dashi-Dorzho Itigilov (1852-1927)

H.6: Ngôi chùa Datsan Ivolguinsk nơi di hài của vị lạt-ma Dashi-Dorzho Itigilov được tạm lưu giữ trước khi đưa đến một ngôi chùa mới.

 


            Ngày 23 tháng 4 năm 2003, một đại hội Phật Giáo được tổ chức và các vị lạt-ma mượn dịp này để chính thức tuyên bố di hài của nhà sư Dashi-Dorzho là xá lợi của toàn thể Phật Giáo Nga, và đồng thời trong dịp này một buổi lễ đặt viên đá đầu tiên cũng đã được tổ chức nhằm xây dựng một ngôi chùa mang tên là Itigel Khambyn Ordon dành riêng để thờ phụng ông. Năm 2005 di hài của ông được đưa đến đây và được thờ trên bệ với các điều kiện khí hậu và độ ẩm của bối cảnh tự nhiên bên ngoài (không đặt trong lồng kính với các điều kiện bảo quản thích nghi). Tháng 4 năm 2013 Vladimir Poutine đích thân đến Buryatia để "nói chuyện" với Dashi-Dorzho Itigilov và đàm thoại với các vị lạt-ma khác.  

 

Vài lời ghi chú của người viết

 

            Thật ra trong khi đọc các mẫu tin trên đây thì người viết cũng chỉ nghĩ rằng đây là một sự kiện có thể liên hệ ít nhiều đến một tín ngưỡng mà mình mong muốn được học hỏi thêm, và do đó cũng đã cố gắng tìm kiếm thêm một vài tư liệu liên hệ hầu giúp mình có thể suy xét cẩn thận hơn mà thôi. Thế nhưng thật cũng hết sức bất ngờ là mẫu tin này không những vẫn còn đang được các cơ quan truyền thông Tây Phương quan tâm và tiếp tục đưa tin mà còn được phổ biến rộng rãi trên nhiều trang mạng Phật Giáo tiếng Việt. Những mẫu tin "hấp dẫn" dễ khơi động sự "tò mò" thường là một "món hàng" thu hút người đọc, nhưng sau đó biết đâu cũng có thể mang lại một sự hoang mang nào đó cho họ. Vì thế cũng xin mạn phép mượn mẫu tin trên đây như là một dịp để cùng chia sẻ với người đọc một vài suy tư về các sự kiện này. Thật vậy một người tu tập luôn phải nhìn vào các sự kiện hay hiện tượng như thế qua nhiều góc nhìn khác nhau, ít nhất là dưới hai khía cạnh: tính cách khách quan và chính xác của một sự kiện và sự ích lợi của sự kiện ấy đối với việc tu tập của mình.

 

            Quả rất khó cho mỗi người trong chúng ta được hội đủ điều kiện và khả năng để khẳng định tính cách xác thực về một hiện tượng hay sự kiện qua tất cả các khía cạnh của nó, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tin vào các kết quả mang lại từ các công cuộc khảo sát và giám định của các chuyên gia và học giả nhiều kinh nghiệm hơn mình. Đối với những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng thì chúng ta cũng có thể tin vào những người tu hành uyên bác, cao thâm và chân chính. Những sự tin tưởng ấy có thể mang lại cho chúng ta một niềm tin nào đó trong việc tu tập của mình, mặc dầu trong thâm tâm thì đôi khi chúng ta cũng khó tránh khỏi đôi chút hoang mang nào đó - chẳng hạn như những sự kiện mang tính cách mầu nhiệm và huyền bí trên đây. 

 

            Khía cạnh thứ hai của một sự kiện cần phải quan tâm là tính cách thật sự ích lợi của nó. Đối với một người tu tập Phật Giáo sự quan tâm ấy chính là sự chú tâm, giúp mình phân tích một hiện tượng hầu rút tỉa những gì thiết thực và lợi ích từ sự phân tích ấy. Sự chú tâm và phân tích đó đối với con đường Phật Giáo không phải là để tìm hiểu những gì mầu nhiệm trong bối cảnh bên ngoài mà là sự chú tâm và phân tích hướng vào chính tâm thức mình, nhằm tìm hiểu sự vận hành của nó hầu giúp mình canh chừng và biến cải nó.  

 

            Bất cứ một hình thức phóng tâm nào vào các sự kiện bên ngoài đều mang ít nhiều tính cách lạc hướng, và dễ đưa đến sự hoang mang cho mình mà thôi. Ngày nay nhờ các phương tiện truyền thông tân tiến, vô số tin tức cũng như các bài viết, bài giảng được phổ biến rộng rãi và được xem là thuộc lãnh vực Phật Giáo, thế nhưng thật ra đôi khi cũng chỉ mang tính cách "bên cạnh" hay "vòng ngoài" của con đường tu tập đích thật, có nghĩa là chỉ nêu lên các nguyên tắc đạo đức thông thường trong xã hội hoặc các kinh nghiệm cá nhân biểu lộ cái tôi của mình, không hề phản ảnh được các khía cạnh thâm sâu của giáo huấn Phật Giáo.  Các sự "lạm phát" và "lạm dụng" đó tất khó tránh khỏi mang lại một chút hoang mang cho những người thật sự mong muốn biến cải và tinh khiết hóa tâm thức của chính mình.

 

            Bài viết trên đây thuật lại các sự kiện liên quan đến một biến cố lạ thường, dù là các chi tiết liên quan đã được chọn lọc và cân nhắc cẩn thận cho thấy là biến cố ấy có thể không hẳn là không hàm chứa một sự thật nào đó, thế nhưng thật ra thì cũng chỉ là một cách mượn dịp nhằm nhắc nhở mỗi người trong chúng ta luôn phải cảnh giác, không nên để cho sự chú tâm rời khỏi tâm thức mình, bởi vì đấy mới thật sự là phương cách tu tập hữu hiệu nhất. Ngoài ra những gì xảy ra hay không xảy ra trong khi tu tập, và dù là có mầu nhiệm hay không, thì cũng chỉ là những gì phụ thuộc và thứ yếu, đến với người tu tập một cách tự nhiên và bình thường.  

 

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 12.02.15

                                                                                                Hoang Phong

             

Độc giả có thể xem thêm về mẫu tin này qua các tài liệu trên mạng như:

 

- youtube: https://www.youtube.com/watch?v=WCvq5Vi_D9I

 

- báo Huffington Post: http://www.huffingtonpost.fr/2015/02/05/moine-bouddhiste-200-ans-meditation_n_6621976.html

 

- BBC News: http://www.bbc.com/news/world-asia-31125338

 

- Francetvinfo: http://www.francetvinfo.fr/monde/asie/ce-moine-momifie-n-est-pas-mort-il-medite-selon-des-experts-bouddhistes_817037.html

 

- báo New-York Times: http://www.nytimes.com/2002/10/01/world/ivolginsk-journal-a-russian-lama-s-body-and-his-faith-defy-time.html  

 

v.v...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2015(Xem: 10058)
Chỉ với tờ giấy khai sinh đã nhòe mực và vốn tiếng Việt bập bõm, suốt 7 năm qua, ông René lặn lội khắp các cơ quan, báo chí ở TP. Hồ Chí Minh và Vũng Tàu để tìm mẹ. Mỗi năm, ông dành dụm để bay sang Việt Nam vài tháng và chỉ mải miết với mục đích của mình mà không phút giây nào thảnh thơi. Ông René sinh năm 1948 tại Phước Lễ, nay là thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Ông là kết quả của mối tình giữa y tá Bùi Thị Năm và một quân nhân Pháp.
12/02/2015(Xem: 7516)
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:
12/02/2015(Xem: 11280)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng:”Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”; nghĩa là: “sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”. Điều nầy có nghiã là: khi chúng ta được sanh ra trong cuộc đời nầy, cha mẹ, Bác sĩ có thể đóan chừng ngày tháng nào chúng ta ra đời. Vì họ là những chủ nhân của việc tạo dựng ra sanh mạng của chúng ta; nhưng sự chết, không ai có thể làm chủ được và không ai trong chúng ta, là những người thường, có thể biết trước được rằng: ngày giờ nào chúng ta phải ra đi khỏi trần thế nầy cả. Do vậy Đạo Phật gọi cuộc đời nầy là vô thường.
05/02/2015(Xem: 7174)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập
18/01/2015(Xem: 6391)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.
07/01/2015(Xem: 6201)
Ở quê tôi, một số gia đình khi người thân mất, có mời Ban hộ niệm đến để hộ niệm. Có điều, những người trong Ban hộ niệm bắt buộc phải niệm (A Di Đà Phật) đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi, có khi quá 24 giờ mới được khâm liệm. Tôi muốn hỏi làm sao để biết người chết được vãng sanh để dừng hộ niệm? Để quá lâu như thế mới khâm liệm có ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của mọi người không? (HUỆ QUANG, Bưu điện Ngã Bảy, Hậu Giang)
22/12/2014(Xem: 26734)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
13/12/2014(Xem: 8080)
Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179. Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.
24/11/2014(Xem: 9140)
A NEWBORN baby may have been trapped in a storm water drain on the side of a Sydney motorway for up to five days before he was found by passing cyclists yesterday. The malnourished baby boy was found abandoned at the bottom of a 2.4m drain, covered by a concrete slab, after a cyclist and his daughter heard the baby’s screams early Sunday morning.
17/11/2014(Xem: 35711)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]