Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quán chiếu tâm chiếu soi cảnh vật

18/01/201111:43(Xem: 10277)
Quán chiếu tâm chiếu soi cảnh vật

 

Đại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Chương III
Thiền Quán

Quán chiếu tâm chiếu soi cảnh vật

Để thấu hiểu tính bất khả phân chia giữa tâm và cảnh, ta phải tiếp tục quán chiếu tâm khi nó chiếu soi cảnh vật (với một tri giác thuần túy). Ngồi trong tư thế tĩnh tọa như ở phần trước, tập trung tâm ý hướng mắt về một vật như: bình hoa, bức tranh hay bất cứ hình sắc nào đặt phía trước mặt. Hãy nhìn một cách kỹ lưỡng, sau đó giảm dần cường độ, rồi lại gia tăng.

Tương tựa như thế, ta có thể chú tâm vào một tiếng động, một âm thanh đối tượng của nhĩ thức, quán chiếu xem tánh của một âm thanh êm dịu và khó chịu là một hay khác? Quán chiếu âm thanh giọng nói của chính mình và của người khác, v.v... Cứ thế, quán chiếu đối tượng của 5 căn, tức 5 trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc.

Khi tâm tiếp xúc chiếu soi cảnh vật, tâm và cảnh là một hay hai thực thể biệt lập? Cảnh vật đi từ bên ngoài vào tâm hay tâm (năng chiếu) phóng ra đến cảnh vật và nghĩ rằng: "Ta sẽ chiếu soi chúng"? Thật ra tâm và cảnh không thể tách rời (giống như mặt gương và hình ảnh trong gương).

Hãy quán sát tánh biết (nhận thức) khi nó tiếp xúc với 5 trần. Nhìn kỹ xem có sự khác biệt nào giữa tánh biết (tâm) và 5 trần (cảnh) không? Khi nhìn một vật, vật ấy phải hoàn toàn hiện hữu bên ngoài?

Khi ta nhắm mắt, vật kia có mất không? Khi ta lấy hai tay che mắt, cảnh vật bên ngoài trở thành u tối chăng?

Nếu trả lời là không, tức đương nhiên công nhận tâm và vật là một, không khác. Nếu bảo tâm và vật là hai và vật thực sự có (hiện hữu) bên ngoài, vậy cái tâm hay biết (vật đó) ở đâu? Nó nằm ở trong hay ở ngoài vật? Hãy cẩn thận, quán chiếu kỹ lưỡng.

Tiếp theo, ta quán chiếu về thân và tâm xem là một hay khác. Thân do tứ đại giả hợp, vô thường sinh diệt, còn tâm thì tự tánh bất sinh bất diệt, vô thỉ vô chung, làm sao có thể là một được? Nếu bảo là khác thì phải nhận định và tách rời được đâu là thân, đâu là tâm. Nhưng tâm không phải một vật mà ta có thể xác định được vị trí của nó. Nó không hẳn nằm ở phía trên hay phía dưới thân thể, mà nó nằm ở khắp châu thân. Nếu không như vậy, làm sao có thể biết được rằng ta đau nhức ở đâu?

Thân và tâm liên hệ nhau như năng và sở (như tách trà và trà được chứa). Nếu bảo rằng thân ở ngoài, tâm ở trong như hai vật cách biệt, vậy khi xảy đến một cảm giác thì cái nào hay biết? Nếu bảo thân hay biết thì xác chết kia (không còn tâm) cũng phải hay biết chứ! Nếu bảo tâm hay biết tức thân và tâm không thể là hai vật hoàn toàn khác biệt.

Mặt khác, tâm là vật vô hình tướng, không thể giết hại hay đánh đập, vậy khi thân bị kim chích, sao tâm cũng biết đau? Phải chăng nếu chích vào thân, ta cũng chích luôn tâm? Hãy quán chiếu kỹ lưỡng trước khi kết luận.

Cần biết rằng thân và tâm không phải là một cũng không phải khác. Trên phương diện tương đối thì chúng tựa như đồ chứa và vật bị chứa, nhưng tuyệt đối thì chúng không phải là hai thực thể hiện hữu riêng biệt.

Tương tựa như thế, ta cần hiểu rõ sự liên quan giữa cảm giác và tâm chẳng khác gì sóng và nước. Tiếp tục quán chiếu như vậy cho đến khi nào thấu hiểu hoàn toàn về bổn tánh của thực tại. Đây là điểm thứ ba của Thiền Quán.


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2015(Xem: 10030)
Chỉ với tờ giấy khai sinh đã nhòe mực và vốn tiếng Việt bập bõm, suốt 7 năm qua, ông René lặn lội khắp các cơ quan, báo chí ở TP. Hồ Chí Minh và Vũng Tàu để tìm mẹ. Mỗi năm, ông dành dụm để bay sang Việt Nam vài tháng và chỉ mải miết với mục đích của mình mà không phút giây nào thảnh thơi. Ông René sinh năm 1948 tại Phước Lễ, nay là thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Ông là kết quả của mối tình giữa y tá Bùi Thị Năm và một quân nhân Pháp.
13/02/2015(Xem: 8216)
Di hài nguyên vẹn trong tư thế ngồi thiền của một nhà sư tịch diệt cách nay 200 năm vừa được tìm thấy ở Mông Cổ. Tờ báo Siberian Times bằng tiếng Anh của Nga phát hành ngày 02 tháng 2 năm 2015, đã đưa tin này trước nhất, và sau đó các hãng thông tấn, truyền hình và báo chí khắp nơi trên thế giới tiếp tục loan báo và đã gây ra một tiếng vang không nhỏ.
12/02/2015(Xem: 7490)
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:
12/02/2015(Xem: 11251)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng:”Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”; nghĩa là: “sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”. Điều nầy có nghiã là: khi chúng ta được sanh ra trong cuộc đời nầy, cha mẹ, Bác sĩ có thể đóan chừng ngày tháng nào chúng ta ra đời. Vì họ là những chủ nhân của việc tạo dựng ra sanh mạng của chúng ta; nhưng sự chết, không ai có thể làm chủ được và không ai trong chúng ta, là những người thường, có thể biết trước được rằng: ngày giờ nào chúng ta phải ra đi khỏi trần thế nầy cả. Do vậy Đạo Phật gọi cuộc đời nầy là vô thường.
05/02/2015(Xem: 7137)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập
18/01/2015(Xem: 6337)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.
07/01/2015(Xem: 6157)
Ở quê tôi, một số gia đình khi người thân mất, có mời Ban hộ niệm đến để hộ niệm. Có điều, những người trong Ban hộ niệm bắt buộc phải niệm (A Di Đà Phật) đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi, có khi quá 24 giờ mới được khâm liệm. Tôi muốn hỏi làm sao để biết người chết được vãng sanh để dừng hộ niệm? Để quá lâu như thế mới khâm liệm có ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của mọi người không? (HUỆ QUANG, Bưu điện Ngã Bảy, Hậu Giang)
22/12/2014(Xem: 26523)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
13/12/2014(Xem: 8048)
Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179. Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.
24/11/2014(Xem: 9091)
A NEWBORN baby may have been trapped in a storm water drain on the side of a Sydney motorway for up to five days before he was found by passing cyclists yesterday. The malnourished baby boy was found abandoned at the bottom of a 2.4m drain, covered by a concrete slab, after a cyclist and his daughter heard the baby’s screams early Sunday morning.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]