Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quán chiếu tâm an tịnh

18/01/201111:43(Xem: 10090)
Quán chiếu tâm an tịnh

 

Đại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Chương III
Thiền Quán

Quán chiếu tâm an tịnh

Phần hai của sự tu tập (chính yếu) là Thiền Quán hay quán chiếu thâm sâu. Cũng như trước, ta phải ngồi trong tư thế vững chắc (Kim Cang tọa), nhưng lần này cách nhìn rất ư là quan trọng. Hai mắt không còn khép hờ, nửa nhắm nửa mở, không được liếc ngó lung tung hay thay đổi điểm tựa. Ngược lại, với sự tập trung sắc bén, mãnh liệt, ngó thẳng đằng trước, tầm mắt hướng nhẹ lên khoảng trống hư không trước mặt.

Trong phần tu Thiền Định, tâm dần dần trở nên vắng lặng tựa như một tấm gương sáng. Tiếp theo, với Thiền Quán, ta quán sát thể tánh của tấm gương cùng những hình ảnh trên đó. Cách quán sát (tầm mắt) cũng thay đổi. Trong lúc tu Thiền Định, hai mắt thả nhẹ và nhìn xuống phía trước. Nay tu Thiền Quán, hai mắt chú ý nhìn kỹ hướng nhẹ lên trên phía trước mặt, điều này sẽ khiến tâm tỉnh giác và bén nhạy.

Bây giờ hãy đặt tâm trong trạng thái yên tịnh, buông thả tự nhiên, không khởi niệm hay ý thức về một cái "Ta", không lo nghĩ. Sau đó gia tăng từ từ sự tập trung tâm ý khiến nó trở nên sáng suốt và bén nhạy.

Đến đây bắt đầu quán sát kỹ lưỡng thể tánh của tâm trong lúc nó đang ở trạng thái hoàn toàn vắng lặng. Thể tánh của tâm ra sao? Có hình tướng, màu sắc hay kích thước không? Có khởi điểm, kết thúc hay tồn tại không? Nó ở trong, ở ngoài hay ở đâu? Ngoài trạng thái an tịnh này ra, còn một ý thức nào khác không? Chả còn gì khác hơn sự rỗng lặng không thể định nghĩa chăng? Hoặc giả trong trạng thái an tịnh này, có một ý thức hay một "cái biết" mặc dù không thể định nghĩa (là cái này hay cái kia) trong sáng, thanh tịnh không thể diễn tả bằng lời (như một người câm không thể diễn tả vị ngọt của đường)? Tánh của tâm an tịnh này phải chăng là một vùng u tối vô tận? Hay một trạng thái sáng suốt bén nhạy?

Tất cả những nghi vấn quan trọng trên đều liên quan mật thiết đến cái mà ta thường gọi là "bổn tánh" (nature primordiale) hay thực tánh của tâm.

Nhận ra được thực tánh của tâm (còn gọi là Phật tánh) đó là giác ngộ. Ngược lại, nếu chìm đắm trong lầm lẫn, bao phủ bởi bóng tối và vô minh, đó là luân hồi và tự tạo khổ đau.

Bởi vậy, khi vị Thầy (Lama) thăm hỏi về diễn tiến của sự tu tập, nếu ta trả lời bằng khái niệm trí thức hoặc lập lại như một con vẹt những gì đã được nghe như thuật ngữ Pháp thoại (kỳ quặc mà ta không hiểu nghĩa) hoặc tệ hơn nữa, với tâm còn nô lệ tám tình đời [1] muốn làm cho Thầy mình kinh ngạc, ta trả lời rằng đã chứng nghiệm được nhiều điều đặc biệt, kỳ bí mà chính bản thân chưa hề đạt đến. Nếu trả lời như vậy, vô tình ta đã tự đắp lên mắt một màn lưới đục và tự lừa dối mình mà thôi. Hơn nữa nếu đã thọ giới thì ta lại phạm vào giới cố nói dối về sự chứng đắc (vọng ngôn). Do đó, ta không nên bịa đặt hay tưởng tượng mà cần phải thành thật trình bày những kinh nghiệm thực có trong lúc tu tập.

Không nên mắc cở hay ngại rằng kinh nghiệm của ta tồi tệ, không có gì đặc sắc. Thí dụ sau khi quán sát tâm, nếu cảm thấy nó màu trắng, ta hãy thưa thật như vậy. Có thể vị Thầy sẽ bảo ta nhìn kỹ lại xem nó có phải màu vàng không? Sau một thời gian, nếu ta trở lại đáp rằng: "nó màu vàng", vị Thầy sẽ trả lời ta: "Không, nó không vàng cũng không trắng". Qua sự thưa hỏi, vấn đáp thành thật như trên, vị Thầy ấy sẽ hướng dẫn ta nhận ra thực Tánh của tâm. Nếu tu tập hay quán chiếu một mình, nhiều khi bổn tánh có thể hiện bày mà ta vẫn không hay biết. Do đó cần phải nương tựa một vị Thầy và phải hết sức thành thật; nếu không, vị Thầy ấy cũng không thể giúp gì được cho ta cả. Vấn đề quan trọng cần được ý thức ở đây là sự mong cầu giác ngộ, giải thoát khổ đau của chính ta, chứ không phải là một trò giải trí.

Hãy chăm chú quán sát tâm. Sau đó ngưng một chút rồi trở lại quán sát tiếp. Muốn cho sự quán sát được dễ dàng, ta cần để tâm an trụ trong trạng thái tĩnh lặng, trong sáng tựa như bầu trời không một chút mây. Tiếp theo chăm chú, dùng hết sức bình sinh nhìn kỹ xem tánh của tâm (nature de l’esprit) ra sao? Đây là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự nhận diện nó. Thêm vào đó, vị Thầy cần phải thăm hỏi các đệ tử, hướng dẫn họ tùy theo cá tính và trình độ. Nếu cần, vị Thầy có thể thúc giục hoặc lập lại nhiều lần một câu hỏi để xem câu trả lời của đệ tử phải chăng do hiểu biết trí thức, tưởng tưởng phù du hay trực nghiệm vững chắc. Về phần đệ tử, cũng phải thành thật trình bày. Đây là điểm thứ nhất của Thiền Quán: quán chiếu tâm an tịnh.

Chú thích:
[1] Huit attitudes mondaines: Hán Việt thường dịch là "bát phong".

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/02/2015(Xem: 7020)
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:
12/02/2015(Xem: 10731)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng:”Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”; nghĩa là: “sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”. Điều nầy có nghiã là: khi chúng ta được sanh ra trong cuộc đời nầy, cha mẹ, Bác sĩ có thể đóan chừng ngày tháng nào chúng ta ra đời. Vì họ là những chủ nhân của việc tạo dựng ra sanh mạng của chúng ta; nhưng sự chết, không ai có thể làm chủ được và không ai trong chúng ta, là những người thường, có thể biết trước được rằng: ngày giờ nào chúng ta phải ra đi khỏi trần thế nầy cả. Do vậy Đạo Phật gọi cuộc đời nầy là vô thường.
05/02/2015(Xem: 6618)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập
18/01/2015(Xem: 5882)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.
07/01/2015(Xem: 5623)
Ở quê tôi, một số gia đình khi người thân mất, có mời Ban hộ niệm đến để hộ niệm. Có điều, những người trong Ban hộ niệm bắt buộc phải niệm (A Di Đà Phật) đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi, có khi quá 24 giờ mới được khâm liệm. Tôi muốn hỏi làm sao để biết người chết được vãng sanh để dừng hộ niệm? Để quá lâu như thế mới khâm liệm có ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của mọi người không? (HUỆ QUANG, Bưu điện Ngã Bảy, Hậu Giang)
22/12/2014(Xem: 23831)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
13/12/2014(Xem: 7565)
Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179. Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.
24/11/2014(Xem: 8519)
A NEWBORN baby may have been trapped in a storm water drain on the side of a Sydney motorway for up to five days before he was found by passing cyclists yesterday. The malnourished baby boy was found abandoned at the bottom of a 2.4m drain, covered by a concrete slab, after a cyclist and his daughter heard the baby’s screams early Sunday morning.
17/11/2014(Xem: 34525)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
12/11/2014(Xem: 8186)
Sống tròn 100 tuổi, bà chưa một lần tắm gội, chưa một lần uống thuốc, đi viện, cũng không ăn cơm, nhưng cơ thể vẫn thơm tho, khỏe mạnh, minh mẫn tới tận ngày mất. Cuộc đời gắn với chữ “không” cùng những khả năng kỳ lạ, không lời giải trong việc trị bệnh, tiên đoán thời thế bằng kiến thức tâm linh khiến bà trở thành một nhân vật huyền thoại, được môn đệ từ khắp nơi thờ phụng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567