Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tư thế căn bản của thân và tâm

18/01/201111:43(Xem: 8521)
Tư thế căn bản của thân và tâm

 

Đại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Chương II
Thiền Định

Tư thế căn bản của thân và tâm

Sự tu tập chính yếu bao gồm hai phần: an trụ tâm hay Thiền Định (Samatha, Shiné) và quán chiếu thâm sâu hay Thiền Quán (Vipasyana, Lhagtong).

Trước hết về Thiền Định, có nhiều phương thức tu tập để trụ tâm vào một điểm (Samadhi, Ting Dzin). Nếu biết cách thì những chướng ngại và vọng niệm sẽ không khởi lên nữa, nhờ đó ta có thể trực nghiệm được giòng tâm thức nguyên thủy [1] và đi sâu vào Thiền Quán.

Hành giả ban đầu tu tập, ngồi xếp bằng theo tư thế kiết già (vajra) hoặc bán già để tiết chế những nguồn nguyên lực [2] đi xuống. Để hướng dẫn những luồng nguyên lực thuộc địa đại chảy vào sạn đạo trung ương [3] thì phải giữ xương sống thẳng như cột trụ. Để đem những luồng nguyên lực thuộc thủy đại trở về sạn đạo trung ương thì đ?t hai bàn tay phía dưới rún theo ấn Đại Định, và thả nhẹ hai vai về phía sau. Để điều khiển luồng thuộc hỏa đại trở về trung ương thì giữ cổ thẳng và thu cằm vào như lưỡi câu. Để hướng dẫn những luồng thuộc phong đại trở về trung ương thì giữ mắt khép hờ một phần ba, chú vào một điểm dọc theo sống mũi. Môi và lưỡi để tự nhiên, hoặc nếu được thì để lưỡi đụng ổ gà. Tư thế trên được gọi là tư thế Vairocana.

Sự định tâm hay an trụ tâm là một trạng thái an lạc phát khởi nhờ tâm an trụ vào một điểm, sau khi hàng phục được 5 chướng ngại: tán loạn, hôn trầm, nghi ngờ, mỏi mệt, mờ ám.

Có nhiều cách tu tập: hoặc trú tâm vào một vật, một việc hoặc suy tư về giáo lý như Tứ Diệu Đế, nhưng vẫn không dính mắc vào "tà niệm". Tà niệm ở đây là những ý nghĩ hoàn toàn không liên quan gì đến đề mục đang quán chiếu. Không nên lầm nghĩ "vô niệm" là ngồi trơ không nghĩ gì hết, vô niệm có nghĩa là vô tà niệm.

Theo giáo lý Mật tông (Tantra), tâm và những luồng nguyên lực liên quan rất mật thiết. Nếu những luồng nguyên lực (prana, lung) trôi chảy đúng đường thì tâm sẽ vắng lặng; nhưng nếu chúng chảy sai trệch thì vọng tưởng, vọng niệm khởi lên loạn xạ. Những luồng này trôi chảy trong các ống dẫn lực hay kinh lực (nadi, tsa); trong số đó có ba đường chính là đường kinh giữa (sạn đạo trung ương), một ở bên phải và một ở bên trái, cả ba chạy song song phía trước đường xương sống.

Thông thường, những luồng nguyên lực chỉ di chuyển trong hai đường kinh phải và trái, do đó làm khơi dậy vọng niệm, ảo tưởng. Một khi những luồng nguyên lực được điều khiển và hướng dẫn trở về sạn đạo trung ương thì mọi vọng niệm tự dứt. Ngồi trong tư thế Vairocana không ngoài thực hiện mục đích trên.

Có nhiều cách phân loại sắp xếp các luồng nguyên lực. Theo sáu phép Du Già của Naropa [4] thì có năm luồng nguyên lực: 1) luồng đi xuống, nhằm tống khứ ra ngoài những uế trược qua hai đường đại tiểu tiện; 2) luồng đi lên, điều khiển sự hấp thụ thức ăn, sự rung động của cổ họng và giọng nói; 3) luồng tiếp giữ sức sống (sinh lực); 4) luồng điều hòa sự tiêu hóa; 5) luồng chạy khắp châu thân, tàng ẩn trong mọi động tác.

Có một cách phân loại khác được sắp xếp theo địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại và không đại.

Trong tập sách này, cả hai cách phân loại được phối hợp để chỉ dạy về tư thế Vairocana và điều khiển những luồng nguyên lực.

Sau khi an trụ ở tư thế này, tâm bớt dính mắc vào giòng tư tưởng vọng niệm, dần dần trạng thái vô khái niệm sẽ ảnh hiện. Để tránh sự căng thẳng hay vận công quá mức, trước hết hãy thở ra vài hơi mạnh rồi sau đó chỉ cần hít thở nhẹ nhàng tự nhiên.

Khi thở ra hãy quán tưởng như đang tống khứ tất cả phiền não và hắc nghiệp ra ngoài. Sau đó, tập hít thở trong chánh niệm, và khi tâm trở lại vắng lặng thì không cần chú tâm theo dõi hơi thở nữa.

Quán niệm hay nhớ lại sơ về các pháp dự bị tu tập, sau đó cắt đứt tất cả ý niệm, không nghĩ gì về quá khứ, tương lai, không bám víu hoặc xua đuổi, chỉ để tâm trong trạng thái trôi chảy tự nhiên, bây giờ và ở đây.

Trên đây là điểm thứ nhất: những tư thế căn bản của thân và tâm, nền tảng quan trọng của Thiền Định, hành giả cần phải tinh tấn thực tập.

Chú thích:
[] Danh từ thông dụng gọi là bổn tánh.

[2]Courants d’énergie: còn gọi là khí lực.

[3]Canal central d’énergie: kinh lực trung ương.

[4]Six Yogas de Naropa






 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/02/2015(Xem: 7050)
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:
12/02/2015(Xem: 10766)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng:”Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”; nghĩa là: “sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”. Điều nầy có nghiã là: khi chúng ta được sanh ra trong cuộc đời nầy, cha mẹ, Bác sĩ có thể đóan chừng ngày tháng nào chúng ta ra đời. Vì họ là những chủ nhân của việc tạo dựng ra sanh mạng của chúng ta; nhưng sự chết, không ai có thể làm chủ được và không ai trong chúng ta, là những người thường, có thể biết trước được rằng: ngày giờ nào chúng ta phải ra đi khỏi trần thế nầy cả. Do vậy Đạo Phật gọi cuộc đời nầy là vô thường.
05/02/2015(Xem: 6654)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập
18/01/2015(Xem: 5921)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.
07/01/2015(Xem: 5662)
Ở quê tôi, một số gia đình khi người thân mất, có mời Ban hộ niệm đến để hộ niệm. Có điều, những người trong Ban hộ niệm bắt buộc phải niệm (A Di Đà Phật) đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi, có khi quá 24 giờ mới được khâm liệm. Tôi muốn hỏi làm sao để biết người chết được vãng sanh để dừng hộ niệm? Để quá lâu như thế mới khâm liệm có ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của mọi người không? (HUỆ QUANG, Bưu điện Ngã Bảy, Hậu Giang)
22/12/2014(Xem: 24133)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
13/12/2014(Xem: 7590)
Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179. Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.
24/11/2014(Xem: 8554)
A NEWBORN baby may have been trapped in a storm water drain on the side of a Sydney motorway for up to five days before he was found by passing cyclists yesterday. The malnourished baby boy was found abandoned at the bottom of a 2.4m drain, covered by a concrete slab, after a cyclist and his daughter heard the baby’s screams early Sunday morning.
17/11/2014(Xem: 34613)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
12/11/2014(Xem: 8221)
Sống tròn 100 tuổi, bà chưa một lần tắm gội, chưa một lần uống thuốc, đi viện, cũng không ăn cơm, nhưng cơ thể vẫn thơm tho, khỏe mạnh, minh mẫn tới tận ngày mất. Cuộc đời gắn với chữ “không” cùng những khả năng kỳ lạ, không lời giải trong việc trị bệnh, tiên đoán thời thế bằng kiến thức tâm linh khiến bà trở thành một nhân vật huyền thoại, được môn đệ từ khắp nơi thờ phụng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567