Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chánh định

18/01/201111:43(Xem: 10125)
Chánh định

 

Đại Thủ Ấn (Mahamudra)
Ouang Tchuk Dorjé - Dịch giả: Thích Trí Siêu

Chương II
Thiền Định

Chánh định

Sau đây là phần tăng trưởng trạng thái Định và nhận rõ bản tánh của tâm. Theo định nghĩa, chánh định là một trạng thái trong đó tâm hoàn toàn vắng lặng, không còn chút vọng động dù là ý nghĩ hay khái niệm, không còn hôn trầm, tán loạn hay nghi ngờ. Trước đây phải khổ nhọc tu tập mới đạt đến, nhưng nay trạng thái này được đạt đến một cách dễ dàng và ta cảm thấy an nhiên tự tại tựa hồ không còn vướng bận vào gì nữa. Ngay cả lúc xả thiền, dù đi hay đến trạng thái này vẫn thường trụ.

Tương tợ trường hợp của một con chim bồ câu, được thả tự do từ một chiếc tàu trên biển cả, nó không làm gì khác hơn là, sau khi bay đảo nhiều vòng, trở về đậu lại trên tàu. Cũng vậy, một khi đã đạt được chánh định, dù nói năng hay hoạt động, tâm sẽ không làm gì khác hơn là trở về trạng thái vắng lặng.

Dù làm bất cứ việc gì đi nữa tâm vẫn luôn luôn vắng lặng, thoải mái, tỉnh thức, chiếu soi và nhận diện tất cả các pháp nhưng hoàn toàn không dính mắc vào chúng.

Luôn luôn giữ tâm vững chắc như núi Tu Di, trong sáng như mặt gương phản chiếu mọi vật. Không nên nóng nảy hay tò mò vì sẽ làm khơi động các ý niệm. Hãy tập tự chủ và để tư tưởng cùng các hình ảnh trôi chảy tự nhiên mà không dính mắc vào chúng. Ngay cả khi đi trên đường, nếu có một vũ nữ xuất hiện múa may ca hát, cũng không được hiếu kỳ để ý. Tự chủ và giữ được tâm vắng lặng trong mọi hoàn cảnh, đó là biểu hiệu của chánh định.

Khi đạt đến trạng thái này, ta sẽ gặt hái được ba điều: sự an lạc, sáng suốt và vô niệm. Từ đó có thể phát sanh nhiều loại thần thông như thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, v.v... Đến trường hợp này cần phải đề cao cảnh giác không được khởi tâm ưa thích tìm cầu hay dính mắc, vì chúng hoàn toàn không có tự tánh. Dính mắc vào chúng sẽ là nhân trói buộc vào sinh tử luân hồi.

Ba kết quả: an lạc, sáng suốt và vô niệm là những trợ duyên cần thiết cho sự Thiền Quán phát sanh trong toàn tánh Không của nó. Nếu dính mắc vào một trong ba điều trên, không ý thức được sự giả hợp của chúng sẽ dẫn đến tái sanh ở các cõi trời: Dục giới nếu ưa an lạc, Sắc giới nếu ưa sáng suốt, Vô Sắc giới nếu ưa vô niệm.

Cần phải tu tập dưới sự hướng dẫn của một vị Thầy. Cả Thầy lẫn trò đều không được lầm lẫn về phương pháp cũng như thành quả gặt hái trong tiến trình tu tập Thiền Định. Điều quan trọng cần nhớ là không bao giờ để tâm bị thu hút hay dính mắc vào dục vật, luôn luôn thành tâm biểu lộ sự tôn trọng và kính mến vị Thầy của mình. Phát triển chí nguyện giác ngộ, cầu giải thoát để cứu độ sáu loài chúng sinh. Trong mỗi thời đều tập trung tâm ý không cho xao lãng.

Nguồn gốc của mọi thành tựu đều xuất phát từ sự tôn kính và lòng tin tưởng vững chắc nơi vị Thầy (Lama) của mình. Phối hợp với chí nguyện tối thượng của Bồ Đề Tâm chắc chắn sẽ dẫn đến Phật quả. Vô thường có thể xảy đến bất cứ giờ phút nào, không nên lập những dự án phù du như "năm tới ta sẽ mua nhà, cưới vợ, sẽ có 3 con và sẽ dành cho chúng những phòng nhỏ, đẹp, và ... ", v.v... Hãy sống với hiện tại nhưng không rời mục đích giác ngộ. Nếu dự định nhập thất 3 ngày hoặc 7 ngày hãy làm đến nơi đến chốn. Không nên bỏ dở nửa chừng, vì đó chính là nguyên nhân của thất bại.

Không nên chạy theo những cám dỗ của cuộc đời, như nịnh hót bề trên để được lợi dưỡng hoặc dựa uy thế để nhục mạ kẻ khác. Hãy noi gương Milarépa, sống đời du phương, ẩn dật, không cần chủ tớ hầu hạ, xa lìa mọi dục lạc thế gian.

Nếu tu tập tinh tấn đúng như pháp, chắc chắn sẽ gặt hái nhiều thành quả và sự hiểu biết chân chánh. Đây là điểm thứ tám (của sự tu tập chánh định).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/02/2015(Xem: 7021)
Hôm ấy, có một vị tỳ-khưu còn trẻ nhưng bị bệnh mất, thi hài được chư tăng hỏa táng. Một vài người thắc mắc sao còn quá trẻ mà đã hết tuổi thọ? Vài ngày sau, trong thành phố Āḷavī có người chết bệnh, có người chết nước, có người chết lửa, có người chết do sét đánh, có người chết do đao kiếm... được bàn tán chỗ này, nơi kia. Đức Phật biết là đúng thời nên ngài thuyết một thời pháp nói về sự chết của các loài hữu tình. Đầu tiên, ngài cảm hứng ngữ thốt lên một bài kệ thơ dài nói về sự chết:
12/02/2015(Xem: 10731)
Trong Kinh Bát Dương có nói rằng:”Sanh hữu hạn, tử bất kỳ”; nghĩa là: “sanh có thời gian, chết chẳng ai biết được”. Điều nầy có nghiã là: khi chúng ta được sanh ra trong cuộc đời nầy, cha mẹ, Bác sĩ có thể đóan chừng ngày tháng nào chúng ta ra đời. Vì họ là những chủ nhân của việc tạo dựng ra sanh mạng của chúng ta; nhưng sự chết, không ai có thể làm chủ được và không ai trong chúng ta, là những người thường, có thể biết trước được rằng: ngày giờ nào chúng ta phải ra đi khỏi trần thế nầy cả. Do vậy Đạo Phật gọi cuộc đời nầy là vô thường.
05/02/2015(Xem: 6618)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập
18/01/2015(Xem: 5883)
Từ xưa đến nay người ta thường thắc mắc về vấn đề mất còn, sống chết. Có hai thuyết làm cho người ta chú ý đến nhiều nhất. Một thuyết cho rằng loài người cũng như loài vật, một lần chết là mất hẳn, không còn gì tồn tại sau đó nữa. Một thuyết cho rằng loài người chết đi, nhưng linh hồn vẫn vĩnh viễn còn lại, được lên thiên đàng hay bị xuống địa ngục.
07/01/2015(Xem: 5623)
Ở quê tôi, một số gia đình khi người thân mất, có mời Ban hộ niệm đến để hộ niệm. Có điều, những người trong Ban hộ niệm bắt buộc phải niệm (A Di Đà Phật) đến khi nào người chết được vãng sanh mới thôi, có khi quá 24 giờ mới được khâm liệm. Tôi muốn hỏi làm sao để biết người chết được vãng sanh để dừng hộ niệm? Để quá lâu như thế mới khâm liệm có ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe của mọi người không? (HUỆ QUANG, Bưu điện Ngã Bảy, Hậu Giang)
22/12/2014(Xem: 23842)
Bộ sách Lamrim Chenmo(tib. ལམ་རིམ་ཆེན་མོ) hay Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ(Tên Hán-Việt là Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận) được đạo sư Tsongkhapa Losangdrakpa (tib. རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ) hoàn tất và phát hành vào năm 1402 tại Tây Tạng và được xem là bộ giáo pháp liễu nghĩa[1]. Bộ sách này sau đó đã trở thành một trong những giáo pháp thực hành tối quan trọng của dòng truyền thừa Gelug, vốn là một trong bốn trường phái Phật giáo lớn nhất tại Tây Tạng đồng thời cũng là dòng truyền thừa mà đương kim Thánh đức Dalai Lama thứ 14 hiện đứng đầu.
13/12/2014(Xem: 7565)
Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179. Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.
24/11/2014(Xem: 8519)
A NEWBORN baby may have been trapped in a storm water drain on the side of a Sydney motorway for up to five days before he was found by passing cyclists yesterday. The malnourished baby boy was found abandoned at the bottom of a 2.4m drain, covered by a concrete slab, after a cyclist and his daughter heard the baby’s screams early Sunday morning.
17/11/2014(Xem: 34527)
"Thọ Mai gia lễ" là gia lễ nước ta, có dựa theo "Chu Công gia lễ" tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc, nhưng không rập khuôn theo Trung Quốc. Mặc dầu gia lễ từ triều Lê đến nay có nhiều chỗ đã lỗi thời nhưng khi đã trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân, nên đến nay trong Nam ngoài Bắc vẫn còn áp dụng phổ biến, nhất là tang lễ. Tác giả của "Thọ Mai gia lễ" là Hồ Sỹ Tân hiệu Thọ Mai (1690-1760), người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông đậu tiến sỹ năm 1721 (năm thứ hai triều Bảo Thái), làm quan đến Hàn lâm Thị chế.
12/11/2014(Xem: 8188)
Sống tròn 100 tuổi, bà chưa một lần tắm gội, chưa một lần uống thuốc, đi viện, cũng không ăn cơm, nhưng cơ thể vẫn thơm tho, khỏe mạnh, minh mẫn tới tận ngày mất. Cuộc đời gắn với chữ “không” cùng những khả năng kỳ lạ, không lời giải trong việc trị bệnh, tiên đoán thời thế bằng kiến thức tâm linh khiến bà trở thành một nhân vật huyền thoại, được môn đệ từ khắp nơi thờ phụng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567