Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Bombay, ngày 8 tháng 3 năm 1961

01/07/201100:59(Xem: 3550)
15. Bombay, ngày 8 tháng 3 năm 1961

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Bombay, ngày 8 tháng 3 năm 1961

Tôi không thể thấy bất kỳ điều gì, tôi không thể quan sát rõ ràng, chính xác, khi tôi gọi chính tôi là một người Ấn độ giáo, một người Thiên chúa giáo, một người Phật giáo – mà là toàn truyền thống, gánh nặng của hiểu biết, gánh nặng của tình trạng bị quy định. Với cái trí đó tôi chỉ có thể quan sát cuộc sống, quan sát một điều gì đó như một người Thiên chúa giáo, như một người Phật giáo, như một người Ấn độ giáo, như một người theo chủ nghĩa quốc gia, như một người theo chủ nghĩa cộng sản, như một người này hay người kia; và trạng thái đó ngăn cản tôi quan sát. Điều đó rất đơn giản.

Khi cái trí quan sát chính nó như một thực thể bị quy định, đó là một trạng thái. Nhưng khi cái trí nói, “Tôi bị quy định”, đó là một trạng thái khác. Khi cái trí nói, “Tôi bị quy định”, trong trạng thái của cái trí đó có cái “tôi” như người quan sát đang quan sát trạng thái bị quy định. Khi tôi nói, “Tôi thấy bông hoa”, có người quan sát và vật được quan sát; người quan sát khác biệt với vật được quan sát; vì vậy có khoảng cách, có một khoảng thời gian, có phân hai, có những đối nghịch; và rồi thì có sự khuất phục của những đối nghịch, đang củng cố của phân hai. Đó là một trạng thái. Rồi thì có một trạng thái khác – khi cái trí quan sát chính nó như đang bị quy định – trong đó không có người quan sát và vật được quan sát. Bạn thấy sự khác biệt chưa?


Liệu cái trí của bạn có thể tỉnh thức rằng nó bị quy định không phải như người quan sát đang quan sát chính nó đang bị quy định – đang trải nghiệm ngay lúc này, không phải ngày mai, không phải phút kế tiếp, trạng thái trong đó không có người quan sát – giống hệt như trạng thái bạn trải nghiệm khi bạn tức giận? Điều này đòi hỏi chú ý vô hạn. Không phải tập trung; khi bạn tập trung, có phân hai. Khi bạn tập trung vào một cái gì đó, cái trí bị tập trung, đang nhìn ngắm vật được tập trung; vì vậy có phân hai. Trong chú ý không có phân hai bởi vì trong trạng thái đó chỉ có trạng thái của đang trải nghiệm.

Khi bạn nói, “Tôi phải được tự do khỏi mọi quy định, tôi phải trải nghiệm”, vẫn còn có cái “tôi” là trung tâm từ đó bạn đang quan sát; vì vậy, trong đó không có giải thoát gì cả bởi vì luôn luôn có cái trung tâm, kết luận, ký ức, một vật đang nhìn ngắm, đang nói rằng “Tôi phải, tôi không được”. Khi bạn đang nhìn, khi bạn đang trải nghiệm, có trạng thái của không người quan sát, một trạng thái không có trung tâm mà từ đó bạn nhìn. Ngay khoảnh khắc của đau đớn thực sự, không có cái “tôi”. Ngay khoảnh khắc của hân hoan tột cùng, không có người quan sát; bầu trời đầy tràn, bạn là thành phần của nó, toàn sự việc này là hạnh phúc tột cùng. Trạng thái này của cái trí xảy ra khi cái trí thấy được sự giả dối của trạng thái cái trí mà gắng sức để trở thành, để thành tựu, mà nói về trạng thái không thời gian. Có một trạng thái không thời gian chỉ khi nào không có người quan sát.

Người hỏi: Cái trí đã quan sát những quy định riêng của nó, liệu nó có thể vượt khỏi tư tưởng và phân hai hay không?

K: Bạn thấy cách bạn chối từ quan sát một cái gì đó rất đơn giản hay không? Thưa bạn, khi bạn tức giận, liệu có một ý tưởng trong trạng thái đó, liệu có một ý tưởng, liệu có một người quan sát hay không? Khi bạn đầy đam mê, liệu có bất kỳ sự kiện nào khác ngoại trừ đam mê đó? Khi bạn bị tràn ngập bởi hận thù, liệu có người quan sát, cái ý tưởng, và mọi chuyện còn lại của nó? Nó đến sau đó, một phần giây sau đó, nhưng trong ngay trạng thái đó không có những việc này.

Người hỏi:: Có mục tiêu mà tình yêu hướng đến. Liệu có phân hai trong tình yêu không?

K: Thưa bạn, tình yêu không được hướng đến cái gì cả. Ánh mặt trời không được hướng đến bạn và tôi; nó ở đó.

Người quan sát và vật được quan sát, ý tưởng và hành động, “cái gì là” và “cái gì nên là” – trong việc này có phân hai, những đối nghịch của phân hai, sự thôi thúc để liên kết hai cái; xung đột của phân hai trong lãnh vực đó. Đó là toàn lãnh vực của thời gian. Bằng cái trí đó, bạn không thể tiếp cận hay khám phá liệu có thời gian hay liệu không có thời gian. Làm thế nào có thể xóa sạch được việc đó? Không phải “làm thế nào”, không phải một hệ thống, không phải một phương pháp, bởi vì khoảnh khắc bạn áp dụng một phương pháp bạn lại ở trong lãnh vực của thời gian. Vậy thì vấn đề là: liệu có thể vượt khỏi việc đó? Bạn không thể thực hiện nó bằng thay đổi từ từ, bởi vì việc đó lại bao hàm thời gian. Liệu cái trí có thể lau sạch tình trạng bị quy định, không phải qua thời gian, nhưng bằng trực nhận ngay thẳng. Điều này có nghĩa rằng cái trí phải thấy được sự giả dối và thấy được cái gì là sự thật. Khi cái trí nói, “Tôi phải tìm ra cái gì là không thời gian”, một câu hỏi như thế của một cái trí bị liên quan trong thời gian không có đáp án. Nhưng liệu cái trí mà là sản phẩm của thời gian có thể tự lau sạch nó – không qua nỗ lực, không qua kỷ luật? Liệu cái trí có thể lau sạch sự việc đó mà không có bất kỳ nguyên nhân nào hay không? Nếu nó có một nguyên nhân vậy thì bạn quay trở lại trong thời gian.

Vì vậy bạn bắt đầu tìm hiểu tình yêu là gì, một cách tiêu cực, như tôi đã giải thích trước kia. Rõ ràng tình yêu có một động cơ không là tình yêu. Khi tôi trao một vòng hoa cho một người quan trọng bởi vì tôi muốn một việc làm, bởi vì tôi muốn một việc gì đó từ anh ấy, đó là kính trọng, hay đó thực sự là bất kính. Con người không có sự bất kính tự nhiên được kính trọng. Chính một cái trí ở trong một trạng thái của tiêu cực – mà không là đối nghịch của tích cực, nhưng tiêu cực của thấy cái gì là giả dối, và buông bỏ cái giả dối như một sự việc giả dối – cái trí đó có thể tìm hiểu.

Khi cái trí hoàn toàn thấy được sự thật rằng qua thời gian, dù nó làm gì chăng nữa, nó không bao giờ có thể tìm được cái khác lạ, lúc đó có cái khác lạ. Nó là cái gì đó bao la hơn, không giới hạn, không thể đo lường; nó là năng lượng không khởi đầu và không kết thúc. Bạn không thể đến được cái khác lạ, nó chỉ có “là”. Chúng ta chỉ quan tâm đến việc lau sạch sẽ – liệu có thể lau sạch sẽ cái trí – không phải từ từ. Đó là hồn nhiên. Chính một cái trí hồn nhiên có thể thấy sự việc này, cái sự việc lạ thường này, mà giống như một con sông. Bạn biết một con sông là gì chứ? Bạn đã thấy nó khi tới lui trong một con thuyền, bơi ngang qua một con sông? Một điều tuyệt vời! Nó có lẽ có một khởi đầu và nó có lẽ có một kết thúc. Khởi đầu không là con sông và kết thúc không là con sông. Con sông là cái vật trong khoảng giữa; nó chảy qua làng mạc; mọi thứ trút vào nó; nó băng qua những thị trấn, toàn thân bị ô nhiễm bởi những hóa chất độc hại; những vật dơ bẩn và nước thải được quẳng vào nó; và trôi đi một vài dặm xa hơn, nó tự lọc sạch chính nó; nó là con sông trong đó mọi thứ sống – con cá ở dưới sông, và con người ở trên uống nước của nó. Đó là con sông; nhưng đằng sau đó, có áp lực khổng lồ của nước, và chính qui trình tự lọc sạch này là con sông.

Cái trí hồn nhiên giống như năng lượng đó. Nó không khởi đầu và không kết thúc. Nó là Thượng đế. Không phải cái đền thờ Thượng đế. Không khởi đầu và không kết thúc, vì vậy không có thời gian và không bị ảnh hưởng bởi thời gian và liên tục tồn tại mãi mãi. Và cái trí không thể đến được nó. Cái trí mà đo lường trong thời gian phải tự lau sạch sẽ chính nó và thâm nhập vào cái khác lạ mà không biết cái khác lạ; bởi vì bạn không thể biết nó, bạn không thể thưởng thức nó, nó không màu sắc, không không gian, không hình thể. Điều đó dành cho người nói, không dành cho bạn, bởi vì bạn đã không rời bỏ cái khác lạ. Đừng nói rằng có trạng thái đó – nó là một trạng thái giả dối khi câu phát biểu được nói ra bởi một người đang bị ảnh hưởng. Tất cả mọi việc bạn có thể làm là vượt khỏi nó, và lúc đó bạn sẽ biết. Thậm chí lúc đó bạn sẽ không biết: Bạn là bộ phận của trạng thái tuyệt vời này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/05/2016(Xem: 10980)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 11905)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 15649)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31639)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
14/03/2016(Xem: 20499)
Đạo đức kinh được coi là do Lão Tử viết vào thế kỉ 4-6 Tr Tây lịch, thời Chiến Quốc bên Trung Hoa, cách đây khoảng 2400 năm. Theo người dịch, Đạo đức kinh của Lão Tử xuất hiện từ thời Chiến Quốc, một thời kỳ ly loạn, đến nay đã trải qua hơn 2000 năm e rằng nội dung đã bị nghiêm trọng biến dạng. Theo nhận xét của cá nhân tôi, Bản chữ Hán đang lưu hành hiện nay, nội dung của từng chương rất là khập khểnh, thiếu sự chặc chẻ không mạch lạc. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy được tinh thần của Đạo đức kinh là “vô vi”, “vô dục”, “vô tranh”và “hợp đạo” vì các từ này thường được lập đi lập lại trong suốt 81 chương kinh. Dựa trên tinh thần này, người dịch đã chọn ra 48 chương trong 81 chương để phỏng dịch và phóng tác. Tất nhiên đã là phỏng dịch thì không theo sát văn; phóng tác thì có sự tư duy sáng tạo của cá nhân. Chùa Hội Phước, Nha Trang 14/6/2012 Thích Chúc Thông
04/03/2016(Xem: 15079)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 11570)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
02/03/2016(Xem: 7631)
Mục đích của Đạo Phật là diệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạc và hạnh phúc. Mục đích của Đạo Phật là giải thoát và giác ngộ, và chỉ có trí tuệ (Pannà) mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoát và giác ngộ. Do vậy giai trò của người có trí và vai trò của trí tuệ chiếm cứ vị trí then chốt trong mọi lời dạy của Đức Bổn Sư chúng ta. Và chúng ta có thể nói Đạo Phật là đạo của người trí, là đạo của tuệ giác để tìm cho được một định nghĩa thỏa đáng cho Đạo Phật.
29/02/2016(Xem: 5166)
Những ngày Tết rộn ràng trôi qua thật nhanh; nhưng hoa xuân vẫn trên cành. Buổi sáng nơi vườn ríu rít tiếng chim. Cành mai chưa kịp ra hoa; các nụ vừa chớm, mũm mĩm vươn lên từ những chồi lá xanh mướt; trong khi hoa đào thì khiêm nhường khoe sắc hồng tía nơi một góc hiên. Các nhánh phong lan kiêu sa nhè nhẹ đong đưa theo làn gió sớm. Bầu trời xanh biếc không gợn mây. Lòng bình yên, không muộn phiền…
21/02/2016(Xem: 5913)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567