Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

4. Seatle, ngày 16 tháng 7 năm 1950

01/07/201100:59(Xem: 3551)
4. Seatle, ngày 16 tháng 7 năm 1950

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Seatle, ngày 16 tháng 7 năm 1950

Người hỏi: Có nhiều ý tưởng về Thượng đế trong thế giới ngày nay. Suy nghĩ của ông về Thượng đế là gì?

Krishnamurti: Trước hết, chúng ta phải tìm ra chúng ta có ý gì qua từ ngữ một ý tưởng. Chúng ta có ý gì qua qui trình suy nghĩ? Bởi vì, rốt cuộc, khi chúng ta hình thành một ý tưởng, chúng ta hãy nói ví dụ như ý tưởng về Thượng đế, công thức hay ý tưởng của chúng ta là kết quả của tình trạng bị quy định của chúng ta, phải không? Nếu chúng ta tin tưởng Thượng đế, chắc chắn niềm tin của chúng ta là kết quả của môi trường sống của chúng ta. Từ niên thiếu có những người được dạy bảo để phủ nhận Thượng đế và những người được dạy bảo để tin tưởng Thượng đế, giống như hầu hết các bạn. Vì vậy chúng ta hình thành một ý tưởng về Thượng đế theo sự dạy dỗ của chúng ta, theo nền tảng quá khứ của chúng ta, theo cá tính riêng của chúng ta, những ưa thích và không ưa thích, những hy vọng và những sợ hãi. Vậy thì rõ ràng là, chừng nào chúng ta còn chưa hiểu rõ qui trình suy nghĩ riêng của chúng ta, thuần túy những ý tưởng về Thượng đế không có giá trị gì cả, phải không? Bởi vì tư tưởng có thể chiếu rọi bất kỳ điều gì nó thích. Nó có thể sáng chế và phủ nhận Thượng đế. Mỗi người có thể sáng chế hay hủy diệt Thượng đế tùy theo những khuynh hướng, những vui thú, và những đau khổ của anh ấy. Vì vậy chừng nào tư tưởng còn năng động, đang hình thành, đang sáng chế, cái vượt khỏi thời gian không thể được khám phá. Thượng đế, hay sự thật, được khám phá chỉ khi nào tư tưởng kết thúc.

Bây giờ, khi bạn hỏi, “Suy nghĩ của ông về Thượng đế là gì?” bạn đã hình thành sẵn tư tưởng riêng của bạn, phải không? Tư tưởng có thể tạo ra Thượng đế và trải nghiệm cái đó mà nó đã sáng chế. Nhưng chắc chắn đó không là trải nghiệm thực sự. Nó chỉ là sự chiếu rọi riêng của chính nó mà tư tưởng trải nghiệm, và vì vậy nó không thực sự. Nhưng nếu bạn và tôi thấy sự thật của điều này, vậy thì có lẽ chúng ta sẽ trải nghiệm một cái gì đó lớn lao hơn một chiếu rọi thuần túy của tư tưởng.

Vào thời điểm hiện nay, khi có sự mất an toàn mỗi lúc một nhiều hơn ở bên ngoài, rõ ràng có một khao khát tìm ra an toàn ở bên trong. Bởi vì chúng ta không thể tìm được an toàn ở bên ngoài, chúng ta tìm kiếm nó trong một ý tưởng, trong tư tưởng, và thế là chúng ta tạo ra cái đó mà chúng ta gọi là Thượng đế, và ý tưởng đó trở thành sự an toàn của chúng ta. Bây giờ một cái trí tìm kiếm an toàn chắc chắn không tìm ra sự thật, chân lý. Muốn hiểu rõ cái vượt khỏi thời gian, những giả tạo của tư tưởng phải kết thúc. Tư tưởng không thể tồn tại mà không có những từ ngữ, những biểu tượng, những hình ảnh. Và chỉ khi nào cái trí yên lặng, tự do khỏi những sáng chế riêng của nó, mới có thể tìm ra điều gì là sự thật. Vì vậy chỉ hỏi liệu có hay không có Thượng đế là một phản ứng không chín chắn đến vấn đề, phải vậy không? Hình thành những quan điểm về Thượng đế là rất ngây ngô.

Muốn trải nghiệm, muốn nhận ra cái vượt khỏi thời gian, rõ ràng chúng ta phải hiểu rõ qui trình của thời gian. Cái trí là kết quả của thời gian, nó được đặt nền tảng trên những kỷ niệm của ngày hôm qua. Và liệu có thể được tự do khỏi vô số kỷ niệm của những ngày hôm qua mà là qui trình của thời gian hay không? Chắc chắn đây là một vấn đề rất nghiêm túc; nó không là vấn đề của niềm tin hay không niềm tin. Tin tưởng và không tin tưởng là qui trình của dốt nát, trái lại hiểu rõ chất lượng gây trói buộc vào thời gian của tư tưởng mang lại tự do mà tự trong chính nó có thể có khám phá. Nhưng hầu hết chúng ta muốn tin tưởng bởi vì nó thuận tiện hơn nhiều; nó cho chúng ta một ý thức của an toàn, một ý thức của thuộc về một nhóm. Chắc chắn chính niềm tin này cô lập chúng ta; bạn tin tưởng một sự việc và tôi tin tưởng một sự việc khác. Vì vậy niềm tin hành động như một chướng ngại; nó là một qui trình của không hội nhập.

Vậy thì, điều quan trọng là, không phải sự vun quén niềm tin hay không niềm tin, nhưng hiểu rõ qui trình của cái trí. Chính cái trí, chính tư tưởng tạo ra thời gian. Tư tưởng là thời gian, và bất kỳ điều gì tư tưởng chiếu rọi phải thuộc thời gian; vì vậy, tư tưởng không thể vượt khỏi chính nó. Muốn khám phá cái gì vượt khỏi thời gian, tư tưởng phải kết thúc, và đó là một sự việc khó khăn nhất bởi vì sự kết thúc tư tưởng không xảy ra qua kỷ luật, qua kiểm soát, qua phủ nhận hay đè nén. Tư tưởng kết thúc chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ toàn qui trình của suy nghĩ, và muốn hiểu rõ suy nghĩ phải có hiểu rõ về chính mình. Tư tưởng là bản ngã, tư tưởng là cái từ ngữ mà gắn kết chính nó như cái “tôi” và, dù bản ngã được đặt ở bất kỳ mức độ nào, cao hay thấp, nó vẫn còn trong lãnh vực của tư tưởng.

Muốn tìm được Thượng đế, cái vượt khỏi thời gian, chúng ta phải hiểu rõ qui trình của tư tưởng – đó là, qui trình của chính mình. Bản ngã rất phức tạp, nó không ở một mức độ, nhưng được tạo thành bởi nhiều tư tưởng, nhiều thực thể, mỗi một cái đối nghịch với những cái khác. Phải có một tỉnh thức liên tục được tất cả chúng, một tỉnh thức trong đó không chọn lựa, không chỉ trích hay so sánh; đó là, phải có thể thấy những sự vật như chúng là mà không làm biến dạng hay diễn giải chúng. Khoảnh khắc chúng ta nhận xét hay diễn giải cái gì được thấy, chúng ta làm biến dạng nó tùy theo nền tảng quá khứ của chúng ta. Muốn khám phá sự thật hay Thượng đế, không thể có niềm tin bởi vì chấp nhận hay phủ nhận là một ngáng trở cho sự khám phá. Tất cả chúng ta đều muốn được an toàn cả bên trong lẫn bên ngoài. Và cái trí phải hiểu rõ rằng sự tìm kiếm an toàn là một ảo tưởng. Chỉ có cái trí không an toàn, hoàn toàn được tự do khỏi bất kỳ hình thức nào của sở hữu mới có thể khám phá – và đây là một công việc gian nan. Nó không có nghĩa là rút lui vào rừng rú, hay đến một tu viện, hay tự cô lập chính mình trong một niềm tin đặc biệt nào đó; trái lại không cái gì có thể tồn tại trong tách rời. Tồn tại là liên hệ; chỉ trong những liên hệ ngay đó chúng ta mới khám phá được chính chúng ta như chúng ta là. Chính sự khám phá được chính chúng ta như chúng ta là này, mà không có bất kỳ ý thức của chỉ trích hay khen ngợi, mới mang lại một thay đổi cơ bản trong cái gì chúng ta là. Và đó là khởi đầu của thông minh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/05/2016(Xem: 10981)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 11907)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 15649)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31640)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
14/03/2016(Xem: 20504)
Đạo đức kinh được coi là do Lão Tử viết vào thế kỉ 4-6 Tr Tây lịch, thời Chiến Quốc bên Trung Hoa, cách đây khoảng 2400 năm. Theo người dịch, Đạo đức kinh của Lão Tử xuất hiện từ thời Chiến Quốc, một thời kỳ ly loạn, đến nay đã trải qua hơn 2000 năm e rằng nội dung đã bị nghiêm trọng biến dạng. Theo nhận xét của cá nhân tôi, Bản chữ Hán đang lưu hành hiện nay, nội dung của từng chương rất là khập khểnh, thiếu sự chặc chẻ không mạch lạc. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể thấy được tinh thần của Đạo đức kinh là “vô vi”, “vô dục”, “vô tranh”và “hợp đạo” vì các từ này thường được lập đi lập lại trong suốt 81 chương kinh. Dựa trên tinh thần này, người dịch đã chọn ra 48 chương trong 81 chương để phỏng dịch và phóng tác. Tất nhiên đã là phỏng dịch thì không theo sát văn; phóng tác thì có sự tư duy sáng tạo của cá nhân. Chùa Hội Phước, Nha Trang 14/6/2012 Thích Chúc Thông
04/03/2016(Xem: 15079)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 11571)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
02/03/2016(Xem: 7631)
Mục đích của Đạo Phật là diệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạc và hạnh phúc. Mục đích của Đạo Phật là giải thoát và giác ngộ, và chỉ có trí tuệ (Pannà) mới là phương tiện duy nhất đưa loài người đến bờ giải thoát và giác ngộ. Do vậy giai trò của người có trí và vai trò của trí tuệ chiếm cứ vị trí then chốt trong mọi lời dạy của Đức Bổn Sư chúng ta. Và chúng ta có thể nói Đạo Phật là đạo của người trí, là đạo của tuệ giác để tìm cho được một định nghĩa thỏa đáng cho Đạo Phật.
29/02/2016(Xem: 5166)
Những ngày Tết rộn ràng trôi qua thật nhanh; nhưng hoa xuân vẫn trên cành. Buổi sáng nơi vườn ríu rít tiếng chim. Cành mai chưa kịp ra hoa; các nụ vừa chớm, mũm mĩm vươn lên từ những chồi lá xanh mướt; trong khi hoa đào thì khiêm nhường khoe sắc hồng tía nơi một góc hiên. Các nhánh phong lan kiêu sa nhè nhẹ đong đưa theo làn gió sớm. Bầu trời xanh biếc không gợn mây. Lòng bình yên, không muộn phiền…
21/02/2016(Xem: 5914)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567