Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đối thoại 4 – Sự thức dậy của Năng lượng

15/07/201114:24(Xem: 3917)
Đối thoại 4 – Sự thức dậy của Năng lượng

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNG VÀ CÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 4

SỰ THỨC DẬY CỦA NĂNG LƯỢNG

New Delhi, ngày 16 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Khi chúng ta bàn luận về Tantra, anh đã nói rằng có một cách làm thức dậy năng lượng. Những người Tantra tập trung vào những trung tâm tinh thần nào đó, và vì vậy giải thoát năng lượng ngủ yên trong những trung tâm đó. Anh sẽ nói liệu có bất kỳ giá trị nào trong việc này? Cách để làm thức dậy năng lượng là gì?

Krishnamurti: Điều gì bạn vừa nói lúc nãy, tập trung vào những trung tâm thân thể-tinh thần, hàm ý, một qui trình của thời gian, đúng chứ? Vì vậy tôi muốn hỏi, liệu năng lượng đó có thể được thức dậy mà không có một qui trình của thời gian?

P: Trong toàn qui trình này, phương pháp truyền thống bắt buộc tư thế đúng đắn và một cân bằng của hơi thở. Nếu thân thể không biết làm thế nào để ngồi ngay thẳng, và làm thế nào để hít thở một cách đúng đắn, không thể có sự kết thúc của suy nghĩ. Muốn mang thân thể và hơi thở đến một cân bằng, chắc chắn cần đến một qui trình của thời gian.

Krishnamurti: Có lẽ có một loại tiếp cận hoàn toàn khác hẳn với vấn đề này. Truyền thống bắt đầu từ hệ thần kinh cơ thể, tư thế ngồi, kiểm soát hơi thở và từ từ qua những hình thức khác nhau của tập trung dẫn đến sự thức dậy trọn vẹn của năng lượng. Đó là cách đã được chấp nhận. Liệu có một thức dậy của năng lượng này mà không trải qua tất cả những luyện tập này.

P: Nó giống như những Bậc Thầy về Zen mà nói rằng người thầy thực sự là người buông bỏ mọi nỗ lực, và tuy nhiên trong Zen muốn thấu triệt thuật bắn cung phải cần đến một tinh thông hoàn hảo của phương pháp kỹ thuật. Chỉ khi nào có sự tinh thông hoàn hảo thì nỗ lực mới không cần đến.

Krishnamurti: Bạn đang bắt đầu tại đầu này hơn là tại đầu kia – đầu này là thời gian, kiểm soát, năng lượng, hoàn hảo, sự cân bằng hoàn hảo.

Đối với tôi có vẻ tất cả việc này giống như đang tiếp xúc với một xó xỉnh của một cánh đồng bao la. Truyền thống trao sự quan trọng lạ lùng cho quá khứ, cho hít thở, cho tư thế đúng đắn. Tất cả việc này bị giới hạn trong một xó xỉnh của cánh đồng, và qua xó xỉnh đó bạn mong chờ kiếm được sự khai sáng. Vậy thì xó xỉnh đó trở thành một lừa bịp. Qua loại uốn éo thuộc hệ thần kinh cơ thể như thế nào đó, hy vọng rằng bạn sẽ nắm bắt được ánh sáng, nguyên vũ trụ. Tôi nghĩ sự khai sáng không hiện diện ở đó – không qua một xó xỉnh. Nó giống như nhìn thấy bầu trời qua một khung cửa sổ nhỏ và không bao giờ ra ngoài để nhìn ngắm bầu trời. Tôi cảm thấy rằng cách đó là một cách vô lý để tiếp cận cái gì đó vô cùng mênh mang, không thời gian.

P: Thậm chí như vậy, anh sẽ thừa nhận rằng tư thế đúng đắn và hít thở đúng đắn củng cố cấu trúc của cái trí.

Krishnamurti:Tôi muốn tiếp cận tất cả điều này hoàn toàn khác hẳn. Trong tiếp cận nó hoàn toàn khác hẳn, rất cần thiết phải quẳng đi tất cả điều gì đã được nói. Tôi thấy cái xó xỉnh giống như một cây đèn cầy trong ánh sáng mặt trời. Cây đèn cầy đang được thắp sáng rất cẩn thận trong ánh sáng mặt trời rực rỡ. Bạn không quan tâm đến ánh sáng mặt trời nhưng lại tiếp tục thắp sáng cây đèn cầy.

Có những sự việc khác được bao hàm; có sự thức dậy của năng lượng đã bị hao tán từ trước đến nay.

Muốn tập trung năng lượng, muốn thâu gom toàn bộ nó, sự chú ý được cần đến, và sự loại bỏ hoàn toàn của thời gian.

Tôi nghĩ, có những vấn đề cơ bản này – thời gian, chú ý không-ép buộc, không-tập trung, không-vây quanh một mảnh, và sự tập hợp năng lượng. Tôi nghĩ, đây là những vấn đề cơ bản mà người ta phải thông suốt bởi vì sự khai sáng phải hiện diện và là thấu triệt lẫn hiểu rõ về sự sống bao la này – sự sống là đang sống, đang chết, đang thương yêu; toàn bộ khó nhọc và vượt khỏi nó.

Những Bậc Thầy truyền thống cũng sẽ đồng ý rằng bạn phải có sự chú ý để vượt khỏi thời gian. Nhưng họ là những người tôn sùng cái xó xỉnh. Họ sử dụng thời gian để vượt khỏi thời gian.

P: Làm thế nào, thưa anh? Tôi giữ một tư thế ngồi và hướng dẫn sự chú ý của tôi. Thời gian được bao hàm trong việc này là gì?

Krishnamurti: Liệu sự chú ý là kết quả của thời gian?

P: Không. Anh đưa ra một câu hỏi và có sự chú ý tức khắc. Liệu sự chú ý này là sản phẩm của thời gian?

Krishnamurti: Không, chắc chắn không.

P: Câu hỏi của anh và sự chú ý của tôi đồng-hiện diện ở đó, liệu có thời gian bị dính dáng? Nếu anh muốn coi điều này là như thế, tiến hành hiểu rõ về chính mình mà luôn luôn đang xảy ra cũng bao hàm thời gian. Cách đây hai mươi năm cái trí của tôi không bao giờ biết chất lượng hiện nay. Trạng thái này đã không hiện diện lúc đó.

Krishnamurti: Chúng ta hãy theo chầm chậm. Chúng ta đang cố gắng hiểu rõ cái gì đó vượt khỏi thời gian.

P: Truyền thống nói hãy chuẩn bị thân thể và cái trí.

Krishnamurti: Qua thời gian bạn chuẩn bị thân thể và cái trí để thâu nhận, để hiểu rõ, để được tự do khỏi thời gian. Qua thời gian, liệu bạn có thể thực hiện được điều này?

P: Truyền thống cũng gợi ý rằng, qua thời gian anh không thể vượt khỏi thời gian?

Krishnamurti: Tôi đang hỏi, khi bạn nói qua thời gian bạn hoàn thiện cái dụng cụ, nó như thế à? Tôi nghi ngờ điều đó. Qua thời gian liệu bạn có thể hoàn thiện cái dụng cụ? Lúc này, đầu tiên ai là người đang hoàn thiện cái dụng cụ? Liệu nó là sự suy nghĩ?

P: Sẽ không có giá trị gì cả khi nói chỉ có sự suy nghĩ. Có nhiều nhân tố khác bị dính dáng.

Krishnamurti: Sự suy nghĩ, biết của sự suy nghĩ, thông minh, tất cả đều được duy trì bởi sự suy nghĩ. Lại nữa, khi nói rằng sự suy nghĩ phải kết thúc và thông minh phải hiện diện là một hành động của sự suy nghĩ. Lại nữa câu phát biểu, người suy nghĩ và suy nghĩ là một, là một hành động của sự suy nghĩ. Bạn đang nói, hoàn thiện cái dụng cụ qua sự suy nghĩ. Đối với tôi sự tiếp cận thuộc truyền thống để hoàn thiện cái dụng cụ qua sự suy nghĩ và vì thế vượt khỏi nó, và hành động của vun đắp thông minh và vượt khỏi thời gian – tất cả việc này vẫn còn trong lãnh vực của sự suy nghĩ. Đó là như thế. Vì vậy, trong chính suy nghĩ đó có người suy nghĩ. Người suy nghĩ đó nói điều này phải xảy ra, điều này không được xảy ra. Người suy nghĩ đó đã trở thành ý muốn của sự thành tựu. Ý muốn để hoàn thiện cái dụng cụ là bộ phận của sự suy nghĩ.

P:Trong vòng tròn này mà anh đang nói; trong điều mà vừa lúc nãy anh diễn tả, cũng được hàm ý nghi vấn của chính dụng cụ mà là sự suy nghĩ.

Krishnamurti: Nhưng người nghi vấn là bộ phận của sự suy nghĩ; toàn cấu trúc là bộ phận của sự suy nghĩ. Bạn có thể phân chia, phân chia nhỏ thêm, thay đổi, nhưng tất cả vẫn còn trong lãnh vực của sự suy nghĩ, và đó là thời gian. Sự suy nghĩ là ký ức, sự suy nghĩ là vật chất; vật chất là ký ức. Chúng ta vẫn còn đang vận hành trong lãnh vực của cái đã được biết, và cái người đang vun quén sự suy nghĩ nói rằng anh ấy sẽ tiếp cận cái không biết được qua cái đã được biết, hoàn thiện cái đã được biết và đạt được sự khai sáng. Lại nữa tất cả việc này là sự suy nghĩ.

P: Nếu mọi thứ là sự suy nghĩ, vậy thì phải cần thiết để sinh ra một dụng cụ mới mẻ.

Krishnamurti: Khi sự suy nghĩ nói nó phải yên lặng, và được yên lặng, nó vẫn còn là sự suy nghĩ. Điều gì những người truyền thống làm là, làm việc trong lãnh vực của sự suy nghĩ mà là xó xỉnh của cánh đồng. Nhưng nó vẫn còn là kết quả của sự suy nghĩ. Đại Ngã là kết quả của sự suy nghĩ. Cái tinh thần vũ trụ mà con người hướng đến, là kết quả của sự suy nghĩ. Người đã trải nghiệm nókhông liên quan gì đến sự suy nghĩ. Nó chỉ xảy ra, trái lại người học trò của anh ấy xuất hiện và nói hãy làm điều này, hãy làm điều kia. Tất cả đều ở trong lãnh vực của sự suy nghĩ.

P: Vậy là không có thâm nhập sâu thêm.

Krishnamurti: Hãy thấy làm thế nào sự suy nghĩ đang đùa giỡn với chính nó – tôi phải có cân bằng, tôi phải có tư thế đúng đắn với mục đích để năng lượng sự sống trôi chảy qua. Đúng chứ? Tôi nói, sự suy nghĩ thuộc về quá khứ. Sự suy nghĩ có thể tạo ra cái dụng cụ tuyệt vời nhất – nó có thể đi đến mặt trăng, đến sao Kim; nhưng sự suy nghĩ không bao giờ có thể chạm được ‘cái khác lạ’ bởi vì sự suy nghĩ không bao giờ được tự do, sự suy nghĩ luôn luôn cũ kỹ, sự suy nghĩ bị quy định. Sự suy nghĩ là toàn cấu trúc của cái đã được biết.

P: Anh có ý gì qua từ ngữ ‘cái khác lạ’.

Krishnamurti: Cái đó không là nó.

P: Cái đó không là cái gì?

Krishnamuri:Cái này ở bên trong lãnh vực của thời gian; sự suy nghĩ mà là thời gian. Cái đó ở bên trong lãnh vực của yên lặng. Vì vậy hãy tìm ra liệu đau khổ có thể kết thúc? Hãy ra khỏi cái xó xỉnh. Hãy tìm ra sống là gì, chết là gì, nó có nghĩa gì khi kết thúc đau khổ. Nếu bạn không bắt gặp cái này, đang đùa giỡn cùng sự suy nghĩ không có ý nghĩa gì cả. Bạn có thể đánh thức tất cả những huyệt đạo kudalini, nhưng với mục đích gì?

Vì vậy một người đang chỉ dạy phương pháp đánh thức những huyệt đạo hay đang khiến cho một con người tài giỏi môn bắn cung trong phương pháp của Zen hay trong luyện tập vô số hình thức khác nhau của Tantra, tất cả vẫn còn trong ngục tù của thời gian, mà là sự suy nghĩ. Tôi thấy điều đó, và tôi thấy rằng nó vẫn còn luẩn quẩn trong những vòng tròn. Vòng tròn có lẽ to lớn hơn nhưng nó vẫn là một vòng tròn, một ngục tù, mà là thời gian.

Thế là, tôi sẽ không sử dụng nó. Tôi sẽ không sử dụng nó bởi vì tôi thấy bản chất, cấu trúc và trật tự của xó xỉnh này. Xó xỉnh này không có ý nghĩa gì đối với tôi. Khi có mặt trời kỳ diệu, tất cả những mức độ khai sáng siddhivà những quyền năng đều giống như những cây đèn cầy.

Liệu cái trí, đang lắng nghe tất cả điều này, có thể xóa sạch nó? Chính đang lắng nghe là đang xóa sạch. Vậy là bạn có nó. Vậy là có chú ý, tình yêu; mọi thứ hiện diện ở đó. Bạn thấy, một cách chính đáng, cái này giam cầm ngược lại cái khác lạ không giam cầm. Sự vận dụng của bộ não là tìm ra sự thật và sự giả dối; thấy sự giả dối như sự giả dối. Bạn thấy, khi cậu bé Krishnamurti thấy sự thật, nó kết thúc. Cậu ta từ bỏ tất cả những tổ chức, vân vân. Cậu ta không có luyện tập ‘để thấy’.

P: Nhưng anh đã có luyện tập. Anh đã trải qua một luyện tập khắc nghiệt của thân thể.

Krishnamurti: Họ bảo cho chúng tôi như thế. Bởi vì thân thể đã bị lơ là. Và vì vậy họ đã nói nếu cậu ta không được chăm sóc cậu ta sẽ bị bệnh tật.

P: Nhưng thưa anh, ngoại trừ sự kỷ luật thân thể, có những hướng dẫn của làm thế nào để nuôi nấng cậu trai đó.

Krishnamurti: Nó giống như chải tóc, thực hiện những bài tập yoga, hít thở; tất cả đều ở cùng mức độ.

B:Nó rất tinh tế. Tôi không đang nói rằng việc gì đã xảy ra có bất kỳ liên quan nào đến sự khai sáng, nhưng chăm sóc thân thể là việc rất cần thiết.

Krishnamurti: Vâng, giữ gìn thân thể khỏe mạnh là việc rất cần thiết.

P:Nếu tôi được phép nói như thế này, anh có dáng dấp của yogi, anh giống như một yogi, thân thể của anh có tư thế của một yogi. Anh đã luyện tập những tư thế, hít thở, mỗi ngày trong quá nhiều năm. Tại sao?

Krishnamurti: Việc đó không quan trọng. Nó giống như giữ gìn những móng tay của tôi được sạch sẽ. Tôi đang nói điều còn lại rất ngây thơ; trải qua nhiều năm trong việc hoàn thiện cái dụng cụ. Tất cả mọi việc mà bạn phải làm là ‘thấy’.

P: Nhưng nếu người ta sinh ra bị mù lòa, chỉ khi nào một người giống như anh đến và nói, hãy thấy, điều gì đó xảy ra. Hầu hết mọi người sẽ không hiểu rõ điều gì anh đang nói.

Krishnamurti: Hầu hết mọi người sẽ không lắng nghe tất cả điều này. Họ sẽ gạt nó đi.

P: Điều còn lại dễ dàng hơn. Nó trao tặng cái gì đó, ngược lại cái này không cho gì cả.

Krishnamurti:Cái này trao tặng mọi thứ nếu bạn hiệp thông cùng nó.

B: Nhưng điều còn lại dễ dàng hơn.

Krishnamurti: Bạn thấy tôi quan tâm vô cùng đến cái này. Làm thế nào cái trí của Krishnamurti đã duy trì được trạng thái vô nhiễm này?

P: Điều gì anh nói không có liên quan. Anh có lẽ là một ngoại lệ. Làm thế nào cậu bé Krishnamurti đã đến được nó? Cậu ta đã có tiền bạc, tổ chức, mọi thứ, và tuy nhiên cậu ta đã từ bỏ mọi thứ. Nếu tôi dắt người cháu gái của tôi lại và giao cho anh và cháu không có sự bầu bạn nào khác ngoại trừ anh, thậm chí như thế cháu cũng không có nó.

Krishnamurti: Không, cháu sẽ không có nó. (Ngừng) Xóa sạch tất cả điều này.

P: Khi anh nói điều đó, nó giống như câu châm ngôn của Zen; con ngỗng đang ló ra khỏi cổ chai. Liệu anh đã có một trung tâm để xóa sạch?

Krishnamurti: Không.

P: Vậy là, anh không có trung tâm phải xóa sạch? Anh là độc nhất và vì vậy anh là một hiện tượng, và vì vậy anh không thể bảo cho chúng tôi anh đã làm việc này và vì vậy nó đã xảy ra. Anh chỉ có thể bảo chúng tôi ‘Đây không phải là nó’ và dù chúng tôi có chết đuối hay không, không ai có thể bảo cho chúng tôi. Chúng tôi thấy điều này. Chúng tôi có lẽ không được khai sáng, nhưng chúng tôi không phải là không-được khai sáng.

Krishnamurti: Tôi nghĩ điều này lý thú vô cùng – khi thấy rằng bất kỳ điều gì sự suy nghĩ tiếp xúc đều không là sự thật. Sự suy nghĩ là thời gian. Sự suy nghĩ là ký ức. Suy nghĩ không thể chạm vào sự thật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/05/2011(Xem: 9265)
Khi truyền bá rộng rãi sang châu Á, Phật giáo thành công khi vượt qua một số vấn đề nổi bật từ những giới hạn về ngôn ngữ trong một số trường hợp phải phiên chuyển thành một ngôn ngữ rất khác với ngôn ngữ nói của Ấn Độ. Giáo lý đạo Phật được truyền đạt bằng lời nói qua vô số ngôn ngữ và tiếng nói địa phương. Còn Kinh tạng, khi đã được viết ra, lại được phiên dịch thành hàng tá ngôn ngữ ngay cả trước thời kỳ hiện đại. Do vì nguồn gốc lịch sử không cho phép các học giả dùng ngôn ngữ nói trong việc giảng dạy, bài viết này sẽ tập trung vào những ý tưởng được viết ra, nhằm khảo sát việc truyền dạy qua lời nói chỉ trong thời kỳ Phật giáo Ấn Độ.
01/03/2011(Xem: 3651)
Tôi xin thưa ngay, con người sau khi chết, nghiệp không bao giờ mất. Trừ phi, những người hiện đời đã dứt sạch ý nghiệp. Nói rõ ra, là những người đã đạt đạo, thì mới thấy được: “nghiệp tính bổn lai không”.Tuy nhiên, nghiệp nhân đã gây, tất nhiên phải có nghiệp quả.
23/02/2011(Xem: 5702)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
26/01/2011(Xem: 4013)
Thưa Thầy, năm nay con 19 tuổi. Làm quà kính dâng Thầy nhân ngày Phật Đản, không gì bằng một chút suy tư. Tuy sống trong xã hội Âu châu, nhưng từ nhỏ con đã theo Thầy lên chùa mỗi dịp lễ Phật Đản, quen nhìn lễ đài với hình tượng đức Phật sơ sinh đứng trên búp sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, tuyên bố: “Ta là bậc cao nhất trên đời, nay là đời sống cuối cùng, không còn tái sinh nữa”.
18/01/2011(Xem: 2361)
Lòng vị tha (altruisme), tâm từ bi (compassion), lòng tử tế (gentillesse) và sự hợp tác (coopération): hơn lúc nào hết đó là những từ thường được đề cập đến trong xã hội ngày nay thông qua các buổi hội thảo, các cuộc nghiên cứu về thần kinh, tâm lý, cũng như về kinh tế học.
11/01/2011(Xem: 5546)
Nền tảng của những sự thực tập Phật Pháp chính yếu không nên thay đổi. Thí dụ căn bản của Bồ Đề Tâm (tâm đại bi) [thái độ vị tha của việc cố gắng vì Phật Quả như một phương tiện để làm lợi ích cho tất cả chúng sinh] và tính không [nền tảng thiết yếu của tâm thức và mọi thứ ] sẽ luôn luôn được đòi hỏi cho những hành giả. Tuy thế, nhằm để tiếp nhận cốt lõi của những sự thực tập này, những chi tiết thứ yếu của chúng - chẳng hạn như trình tự của những con đường [tu tập] mà trong đấy chúng được tiếp cận, những sự quán tưởng đặc thù liên hệ với chúng và v.v… - có thể được thay đổi một cách thiện xảo tùy theo tinh thần khác biệt của những người tiếp xúc.
30/12/2010(Xem: 3205)
Vào tháng 9 năm 1991, Sulak Sivaraksa bị kết án là ‘khi quân’ vì những lời chỉ trích chính quyền của Ông tại Đại Học Thammasat Vọng Các. Bọn quân phiệt Thái hăm dọa bắt nhốt ông, ông đào thoát và từ đó đến nay sống lưu vong. Ông là một nhà hoạt động xã hội tích cực nhất của Á Châu, Ông là sáng lập viên của Tổ Chức Phật Giáo Nhập Thế trên thế giới. Ông hiện dạy tại các Đại Học Mỹ và vừa mới xuất bản cuốn Hạt Giống An Lạc (Seeds of Peace) do nhà xuất bản Parallax. H: Mặc dầu ông xuất thân từ truyền thống Phật Giáo Tiểu Thừa, ông sống theo mẫu mực của lý tưởng Bồ Tát trong Đại Thừa, sống hoàn toàn quên mình. Ở Mỹ từ ngữ Phật Giáo Nhập Thế được đồng hóa với những hoạt động xã hội lấy hứng khời từ Phật Giáo. Có sự khác nhau nào giữa Phật Giáo Nhập Thế và Lý Tưởng Bồ Tát?
28/11/2010(Xem: 7444)
Mùa thu vừa rồi, tôi đã tiến hành một loạt phỏng vấn với Đức Đạt Lai Lạt Ma qua những buổi giải lao hiếm hoi trong thời khóa biểu của ngài khi ngài chính thức trong một khóa thuyết giảng. Tôi thật may mắn có đủ nhân duyên để có thể viếng thăm Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn tại tịnh thất khiêm tốn, đầy màu sắc sống động của ngài ở Dharamsala lần đầu tiên năm vào năm 1974, khi tôi là một thiếu niên.
26/10/2010(Xem: 3357)
Câu hỏi 1: Ma ở trong tâm, làm thế nào để tâm Phật thắng được tâm ma? Phật thường ở trong tâm thiện. Nếu có người làm ác, phải làm gì để họ theo thiện bỏ ác? Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo đã giải thích cho chúng ta vấn đề này. Phật cùng ma là một, không phải hai. Giác ngộ rồi ma liền thành Phật; mê hoặc rồi, Phật biến thành ma. Cho nên, một niệm giác ngộ thì Phật ở tại tâm, một niệm vừa mê, thì ma ở tại tâm. Phật dạy bảo chúng ta phải thường giác ngộ. Một niệm vì chính mình, tự tư tự lợi, chính là ma, tâm này chính là tâm ma. Thay đổi lại ý niệm, vì xã hội, vì chúng sinh, tâm này chính là tâm Phật. Do đó làm thế nào đem cái ý niệm tự tư tự lợi chuyển đổi thành lợi ích xã hội, lợi ích chúng sinh. Đây là mấu chốt vô cùng quan trọng. Người có thể thay đổi được ý niệm, đương nhiên họ có thể đoạn ác hướng thiện.
30/09/2010(Xem: 4204)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), PTVN đã gặp sư Phước Nhân, một hành giả giỏi pháp hành của thiền viện Phước Sơn để xin sư nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567