TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO
TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH
( Majjhima Nikàya )
Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli
Chuyển thể Thơ :
Giới Lạc MAI LẠC HỒNG tựTUỆ NGHIÊM
( Huynh Trưởng Cấp Tấn - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )
Email : [email protected]
LỜI NGỎ
- Namo Sakya Muni Buddhàya .
Nhất tâm đính lễĐại Giác Thế Tôn Thích Ca Mâu-Ni Phật .
- Namo Thitasìlo Mahàtheràya .
Kính lễthượng Giới hạ Nghiêm Bổn Sư Hòa Thượng Giác Linh.
- Ngưỡng bạch Chư Tôn Thạc Đức Tăng Già.
- Kính thưa mười phương chư Thiện Hữu Tri Thức.
Do duyên lành thù thắng, được Chư Tôn Đức cùng Thiện-hữu Tri-thức gần xa hết lòng hỗ trợ và khuyến khích nên từ ngày 9. 9. 2009, chúng con đã khởi soạn “Thi hóa TRƯỜNG BỘ KINH” gồm 3 Tập, chuyển thể thơ tất cả 34 Kinh, đã được hoàn tất vào ngày 15. 7. 2011. Ba Tập đã lần lượt được ấn hành do Nhà Xuất Bản Phương Đông (Saigon, Việt
Nay chúng con lại tiếp tục phát nguyện Chuyển Thơ Kinh TRUNG BỘ để gọi là góp một vài viên gạch trong tòa nhà Chánh Pháp, mong giúp phần nào cho những vị hữu duyên muốn tìm hiểu kho tàng Phật Pháp trong Tam Tạng Thánh Điển Phật Giáo có thêm tài liệu tham khảo.
Phật Giáo Việt Nam từ xưa vẫn sử dụng Tam Tạngbằng chữ Hán, nên các nhàsư bắt buộc phải biết Hán tự để đọc kinh sách, vì Tam Tạng kinh điển chưa được dịch sang Việt ngữ, ngoại trừ một số Kinh từ Hán Tạng được các vị Dịch sư thực hiện từ sau thời Chấn hưng Phật giáo. Còn Pàli Tạng thì hầu như chưa có.
Nhưng rồi đại duyên lành đã đến từ Hòa Thượng Minh Châu sau khi tốt nghiệp Tiến Sĩ Phật học tại Ấn Độ, đã phát nguyện phiên dịch Tạng Kinh từ Pàli Tạng ra Việt ngữ.Vàđến nay Phật Giáo Việt Nam tự hào đã có Tạng Kinh tiếng
Việt trọn đủ 5 bộ : Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, Tăng Chi Bộ và Tiểu Bộ .
Chúng con hết lòng ngưỡng phục và biết ơn công đức phiên dịch của Cố Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU, vì nhờ Ngài mà chúng con mới có thể tiếp cận được những lời dạy thâm thúy và siêu việt của Đức Thế Tôn.
Bản thân chúng con, tài hèn trí kém, cũng không phải là nhà thơ, nhưng cảm nhận được ân đức độ sinh cao cả của đấng Cha Lành và cảm niệm ân giáo hóa của Bổn Sư : cố Hòa Thượng GIỚI NGHIÊM – nên thường ấp ủ ý tưởng báo đền ơn Phật, báo ân Thầy Tổ, giúp đem Pháp nhiệm mầu đến cho nhiều người để cùng được ân triêm pháp nhũ.
Do duyên lành hội đủ, chúng con đã có cơ hội thực hiện được ý nguyện qua việc chuyển Trường BộKinh, và đến nay thực hiện chuyển TRUNG BỘ KINH sang thể Thơ đặc thù của Việt Nam là song thất lục bát, từbảndịch Việt ngữ của Cố Hòa Thượng Minh Châu.
Khi Phật còn tại thế, văn tự chưa được sử dụng để ghi chép lời Phật, nên Đức Phật thường dùng lối trùng tụng : Một ý tưởng được Ngài nhắc lại ít nhất 3 lần . Sau khi Phật nhập Niết Bàn 3 tháng, Tôn-giả Đại Ca-Diếp ( Mahà Kassapa )triệu tập Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần đầu, qui tụ 500 vị A-La-Hán ; Tôn-giả Ưu-Ba-Ly ( Upali ) trùng tuyên Luật Tạng,còn Tôn-giả Ananda (A-Nan ) trùng tuyên Kinh Tạng. Các Ngài vì lòng tôn kính Đức Phật, tôn kính Giáo Pháp nên không dám thay đổi một lời nào và giữ nguyên lối trùng tụng như khi Phật sinh tiền. Mãi đến kỳ Kết Tập Tam Tạng lần thứ IV, Đại Hội mới quyết định dùng lá buôn để ghi chép toàn bộ ba Tạng : Kinh, Luật, Luận ; nhưng vẫn không dám thay đổi ngôn từ.
Do đó chúng con cố gắng chuyển sang thể thơ và giản lược những phần nào có thể. Thiết nghĩ với lối thơ đặc biệtViệt Nam này, sẽ khiến những lời dạy của Đức Phật trở nên gần gủi dễ hiểu, dễ nhớ hơn.
Sự chuyển đổi từ văn xuôi sang thể thơ không phải là điều đơn giản, có lúc tưởng chừng phải bỏ cuộc vì Ý kinh cao sâu khó diễn tả bằng ngôn ngữ thế gian ; mà còn bị hạn chế trong vần điệu của luật thơ bằng trắc, yêu vận, cước vận, trầm bình thanh, phù bình thanh … Cũng có lúc đã phải vật lộn với chữ nghĩa, khiến sự tìm từ đúng ý để hợp vần không phải là dễ .
Nhưng khi thực hiện việc chuyển thơ Kinh, chúng con vô cùng hoan hỷ và xúc động trước sự cao cả và lòng đại bi đại trí của đức Thế Tôn, mỗi một kinh có một nội dung phong phú khác nhau, nhưng vô cùng súc tích và thâm thúy .
Chúng con thành kính tri ân Chư Tôn Đức Tăng Già nhiều nơi cùng các Thiện Hữu Tri Thức đã chân tình khuyến khích việc làm này ; cũng như công việc chuyển thơ Kinh được thành tựu nhanh chóng nhờ rất nhiều ở sự khích lệ, góp ý của những người thân nhất của chúng con là hiền nội Nghiêm Thủy Ngô thị Nam Phương và hai con: Nghiêm Tịnh Mai Phương Quỳnh, Tâm Hạnh Mai Phương Dung.
Phần phước thanh cao này , chúng con xin kính thành hồi hướng đến Ân Sư: Cố Hòa ThượngGIỚI NGHIÊM và Ngài Dịch Sư Kinh Tạng : Cố Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU, nguyện giác linh các Ngài cao đăng thượngphẩm, hồi nhập Ta Bàđểhóa độ chúng sinh và sớm viên thành chí nguyện chứng đạt Vô thượng Bồ đề.
Cầu nguyện chư hương linh : Thân phụ Mai Văn Minh tự Lưu PD Phúc Phương, thân mẫu Nguyễn thị Khanh PD Diệu Khánh, nhạc phụ Ngô Ngọc Của PD Phúc Hải … Cùng tất cả thân bằng quyến thuộc đã quá vãng của các vịđạo tâm, đềuđược sinh về cảnh giới An Lạc, bằng như đang ở nơi an vui thì sự an vui càng tăng tiến thêm.
Nguyện hồng ân Tam Bảo thùy từ gia hộ cho các vị Ân nhângóp phần tạo thành tác phẩm này đều được đầy đủ năm pháp chúc mừng : Sống lâu, dung sắc tươi đẹp, an vui, sức khỏe dồi dào và trítuệ sáng suốt ( Ayu, vanno, sukham, palam, &paññà ) và sở cầu như nguyện ( Yam yam icchitam, tam tam khippameva samicchatu ).
Chúng tôi cũng không quên hồi hướng đến hương linh chư vị Gia Trưởng, Huynh Trưởng vàĐoàn-sinh quá cố của Gia Đình Phật Tử Việt Nam trong nước và hải ngoại ; nhất là cố HTr. cấp Dũng : Như Tâm Nguyễn Khắc Từ (UV. Nghiên Huấn BHDTƯ) và cố HTr. cấp Dũng : Nhật Thường Nguyễn Quang Tú (Trưởng BHD/ GĐPT Tỉnh Gia Định) là những bậc đàn anh khả kính đã hết lòng dìu dắt chúng tôi trong Tổ chức GĐPT. Cầu nguyện chư hương linh đều được vãng sinh về cảnh giới An lạc .
Rất mong Chư Tôn Thạc Đức Tăng Già; mười phương chư Thiện Hữu Tri Thức cùng tùy hỷ trong công việc chuyển thơ kinh này, vì không phải cho riêng cá nhân ai, mà là lợi lạc khắp chúng hữu tình, nếu được phần nào thấu hiểu chánh pháp vi diệu của đấng Đại Giác Thế Tôn qua những lời thơ quê mộc mạc được diễn đạt với cả tấm lòng này.
Cũng rất mong Quý Ngài và Quý vị chỉ dẫn những chỗ sai sót, góp ý sửa chữa để tác phẩm được thập phần tốt đẹp.
Cuối cùng, xin thành kính nguyện đem chút ít công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo .
California , 12- 12- 2012 – năm Nhâm Thìn âm lịch.
Với tâm chân thành ,
Giới Lạc MAI LẠC HỒNG tựTUỆ NGHIÊM
XIN LƯU Ý
VỀ VIỆC PHIÊN ÂM PHẠN NGỮ PALÌ
- Kính bạch Quý Ngài . - Kính thưa Quý vị .
Theo ngu ý của chúng tôi, trong văn phạm Palì, những mẫu tự cuối của từ nguyên mẫu gồm : A, À, U, Ù , I, Ì, E, O thì những mẫu tự không có ký hiệu dấu ngang (giống như dấu huyền) đều đọc giọng ngắn và như có dấu sắc : á , ú , í . Còn à , ù , ì , e , o được đọc giọng dài và phát âm như a , u , i , ê , ô … của tiếng Việt, nên chúng tôi xin mạn phép sử dụng phiên âm tùy chỗ, khi dùng như có dấu sắc, khi dùng như không dấu.
Ví dụ : Chữ Magadha, đọc theo lối bình thường là : Ma-ga-tha, nhưng theo đúng văn phạm Palì phải đọc Má-gá-thá (giọng ngắn) .
Do đó xin quý Ngài và quý vị không ngạc nhiên khi thấy tại sao một danh từ lúc ghi có dấu sắc, lúc lại không có dấu cho hợp vần. Ví dụ như trong Kinh “Chánh Tri Kiến”số 9, tên Tôn Giả Xá Lợi-Phất, có chỗ phiên âm là Sa-Ri-Pút-Tá, có chỗ ghi là Sa-Rí-Pút-Ta.
Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I ) *MLH – 010A
[ Cũng theo văn phạm Palì , không những động từ phải chia , mà danh từ cũng được chia theo 8 cách ( thay vì phải dùng mạo từ như trong văn phạm Pháp-văn hayAnh-ngữ) , mỗi từ nguyên mẫu gọi là karanta được chia
theo một bảng khác nhau .
Ví dụ các danh từ nguyên mẫu : magga ( con đường – thuộc á karanta), hatthi (con voi – í karanta), bhikkhu (vị Tỳ-khưu hay Tỷ-Kheo – ú karanta) … đều được chia với số ít (ekavacana) hay số nhiều (bahuvacana) theo 8 cách như : Chủ cách, đối cách, sở hữu cách, sở dụng cách, xuất xứ cách, hô cách . . .
Một ví dụ khác : Từ nguyên mẫu Bhikkhu, trong Tạng Palì thường thấy từ : Bhikkhave ! ( Này các Tỷ Kheo !) đây là thể hô cách ].
Ngưỡng mong chư Tôn Đức và chư Thiện-hữu Tri-thức hoan hỷ thể tất cho những lỗi lầm nếu có .
Kính ghi ,
NGUYỆN VĂN
- Kính lạy đấng Tam giới Đạo Sư, Tứ sinh Từ Phụ, Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.
Đệ tử chí thành đảnh lễ ba ngôi Tam Bảo : Vô thượng Tôn Phật, Vi diệu Chánh Pháp, Thanh tịnh Tăng-Già.
Đệ tử lâu đời lâu kiếp, nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nên mãi trôi lăn trong vòng sinh tử. Nhưng cóđược chút duyên lành gặp được Chánh Pháp vi diệu nhiệm mầu do đấng Thiên Nhân SưĐại Giác Thích Ca Mâu Ni giáo truyền. Lại gặp được Minh sư dẫn dắt để biết đường ra khỏi rừng mê.
Nay đệ tửđem hết lòng thành hướng vềđấng Thích Tôn Từ Phụ cùng mười phương chư vị Thánh Hiền Tăng, khẩn cầu sám hối tất cả tội lỗi kể từ vô thỉ cho đến ngày nay, do thân, khẩu, ý mê lầm tạo tác.
Đệ tử không ngại tài hèn trímỏng, phát nguyện chuyển thơ Kinh Trường Bộ, không khỏi lo âu vì sợ ngôn từ thô vụng, ý cạn lời quê có thể lầm sai thánh ý, sai lạc Phật ngôn. Nhưng với tâm chí thành tha thiết, hướng về đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn - với niềm tôn kính vô biên, với sự biết ơn vô hạn trước công đức độ sinh cao cả của Ngài, cầu mong thiện sự này sẽđược viên thành mỹ mãn.
Đệ tử nguyện đem chút ít công đức này, chí thành hồi hướng đến chư vị Tổ Sư Hòa Thượng tiền bối hữu công trong việc hoằng truyền Chánh Pháp ; đến Ân Sư và cha mẹ. Cùng hồi hướng đến khắp pháp giới chúng sinh đều được ân triêm hồng ân Tam Bảo đểđược vô lượng an lành và trọn thành Phật đạo.
tác đại chứng minh.
Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I ) *MLH – 012A
TÁN THÁN TAM BẢO :
PHẬT là đấng Toàn Tri Diệu Giác
PHÁP lưu truyền lợi lạc Nhân Thiên
TĂNG Già hòa hiệp, tịnh thiền
Quay về nương tựa, cần chuyên tu trì.
NHẤT TÂM ĐÍNH LỄ :
1. Namo Buddhàya :
Kính lễ mười phương ba đời hết thảy chư Phật.
2. Namo Dhammàya :
Kính lễ mười phương ba đời hết thảy Tôn Pháp.
3. Namo Sanghàya :
Kính lễ 10 phương ba đời hết thảy Hiền Thánh Tăng.
4. Namo Dìpamkaram Buddhàya :
Kính lễ Quá khứ Nhiên Đăng Phật.
5. NamoVipassì Buddhàya : Kính lễ Tỳ-Bà-Thi Phật.
6.Namo Sìkhi Buddhàya : Kính lễ Thi Khí Phật.
7. Namo Vessabhù Buddhàya: Kính lễ Tỳ-Xá-Phù Phật
8. Namo Kakusandham Buddhàya :
Kính lễ Câu-Lưu-Tôn Phật.
9. Namo Konàgamanam Buddhàya :
Kính lễ Câu-Na-Hàm Mâu-Ni Phật.
10. Namo Kassapam Buddhàya : Kính lễ Ca-Diếp Phật.
11.Namo Sakya Muni Buddhàya :
Kính lễ Hiện tại giáo truyền Thích Ca Mâu-Ni Phật.
12. Namo Metteya Bodhisattwa :
Kính lễ Vị Lai Phật Di-Lặc Bồ-tát.
*
13. Namo Aññà Kondaññam Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Hạ Lạp A-Nhã Kiều-Trần-Như Tôn Giả.
Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I ) *MLH – 013A
14. Namo Mahà Sariputtam Sàvakàya :
Kính lễ Đệ nhất Trí Tuệ Xá-Lợi-Phất Tôn Giả.
15. Namo Mahà Moggallana Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Thần Thông Ma-Ha Mục-Kiền-Liên Tôn Giả.
16. Namo Puññà Mantaniputtam Sàvakàya : Kính lễĐệ nhất Thuyết Giáo Phú-Lâu-Na (Mãn-Từ-Tử)Tôn Giả.
17. Namo Upalì Sàvakàya :
Kính lễĐệ nhất Trì luật Ưu-Ba-Li Tôn Giả.
18. Namo Mahà Kassapam Sàvakàya :
Kính lễĐệ nhất Đầu Đà Ma-Ha Ca-Diếp Tôn Giả.
19. Namo Mahà Kaccayànam Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Luận Nghị Ma-Ha Ca-Chiên-Diên Tôn Giả.
20. Namo Anuruddham Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Thiên Nhãn A-Nậu-Lâu-Đà Tôn Giả.
21. Namo Anandam Sàvakàya :
Kính lễĐệ nhất Đa Văn A-Nan-Đa Tôn Giả.
22. Namo Rahulam Sàvakàya :
Kính lễĐệ nhất Mật Hạnh La-Hầu-La Tôn Giả.
23. Namo Subhuti Sàvakàya :
Kính lễĐệ nhất Giải Không Tu-Bồ-Đề Tôn Giả.
24. Namo Revatam Sàvakàya :
Kính lễĐệ nhất Thiền Định Ly-Bà-Đa Tôn Giả.
25. Namo Sivali Sàvakàya :
Kính lễĐệ nhất Phước Đức Si-Va-Li Tôn Giả.
26. Namo Cùla Panthakam Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Giải Thoát Chu-Lị Bàn-Đà-Già Tôn Giả.
27. Namo Mahà Kotthitam Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Đắc Giải Ma-Ha Câu-Hy-La Tôn Giả.
Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I ) *MLH – 014A
28. Namo Uruvela Kassapam Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Lãnh Chúng Ưu-Lâu-Tần-Loa Ca-Diếp Tôn Giả
29. Namo Mahà Kappinam Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Giáo Giới Ma-Ha Kiếp-Tân-Na Tôn Giả.
30. Namo Pindola Bhàradvàjam Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Sư-Tử-Hống Tân-Đầu-Lô Phả-La-ĐọaTôn Giả.
31.Namo Lakuntaka Bhaddiyam Sàvakàya – Kính lễ
Đệ nhất Pháp Âm Kiều-Phạm Ba-Đề Tôn Giả.
32.Namo Nandam Sàvakàya –
Kính lễ Đệ nhất Tiết Chế Nan-Đà Tôn Giả.
33.Namo Radham Sàvakàya –
Kính lễ Đệ nhất Biện Tài La-Đà Tôn Giả.
34. Namo Veluvanavihàrà Sabba Sàvakàya –
Nam-mô Trúc Lâm hội thượng chư Hiền ThánhTăng
35. Namo Jetavanavihàrà SabbaSàvakàya –
Nam-mô Kỳ Viên hội thượng chư Hiền Thánh Tăng.
36.Namo Gijjhakutavihàrà Sabba Sàvakàya –
Nam-mô Linh Sơn hội thượng chư Hiền Thánh Tăng.
37. Nam-mô Lịch đại Hoằng truyền Chánh Pháp
chư Hiền Thánh Tăng.
------------------------
38. Namo Mahà Pajàpati Gotami Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Hạ lạp Đại Ái Đạo Kiều-Đàm-Di Thánh Ni.
39. Namo Khemà Sàvakàya :
Kính lễĐệ nhất Trí Tuệ Khê-Ma Thánh Ni.
40. Namo Uppalavannà Sàvakàya :
Kính lễĐệ nhất Thần Thông Liên-Hoa-Sắc Thánh Ni.
41. Namo Yasodhara Sàvakàya :
Kính lễ Đại Thần Thông Da-Du-Đà-La Thánh Ni.
Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I ) *MLH – 015A
42. Namo Dhammadinnà Sàvakàya. Kính lễ Đệ nhất
Thuyết Giáo Đam-Ma-Đin-Na Thánh Ni.
43. Namo Pàtàcarà Sàvakàya : Kính lễ Đệ nhất Trì Luật Pa-Ta-Cha-Ra Thánh Ni.
44. Namo Bhaddà Kàpilàni Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Chú Giải Phách-Đa Ka-Pi-La-Ni Thánh Ni.
45. Namo Bhaddà Kundalakesà Sàvakàya : Kính lễ Đệ
nhất Luận Nghị Phách-Đa Kun-Đa-La-Kê-Sa Thánh Ni.
46. Namo Kisà Gotami Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Đầu Đà Ki-Sa Gô-Ta-Mi Thánh Ni.
47. Namo Sundari Nandà Sàvakàya : Kính lễ
Đệ nhất Thiền Định Sanh-Đa-Ri-Nan-Đa Thánh Ni.
48. Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo.
SÁM NGUYỆN :
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội ác bởi lầm mê
Đắm trong sinh tửđã bao lần
Nay đến trước đài Vô Thượng Giác
Biển trần khổ lâu đời luân lạc
Với sinh linh vô sốđiêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng
Đoàn con dại từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy Đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng Từ quang
Lạy Phật Tổ soi đàng dẫn bước
Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyền
Xin sám hối để lòng thanh thoát.
Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I ) *MLH – 016A
Trí Phật quang minh như nhật nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sinh
Ôi ! từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi, con nguyền ra khỏi.
Theo gót Ngài vượt qua khổ hải
Nương thuyền từ vượt khỏi Ái hà.
Nhớ lời Ngài : Bờ Giác không xa
Hành Thập Thiện cho đời tươi sáng
Bỏ việc Ác đểđời quang đãng
Đem pháp lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi
Hình bóng Người cứu khổ chúng sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ, nguyền xin cứu khổ
Chúng con khổ, nguyền xin tựđộ
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời
Phá si mê, trí tuệ tuyệt vời
Lời Phật dạy đời đời ghi tạc :
Nguyện tinh tấn diệt trừđiều Ác
Cố gắng làm tất cả việc Lành
Giữ tâm hồn trong sạch, tinh anh
Nương Pháp Phật tu hành tựđộ
Tứ Diệu Đế chuyển mê khai ngộ
Trợ BồĐề băm bảy pháp tu :
- Tứ Chánh Cần nổ lực công phu
- Tứ Niệm Xứ thường hằng niệm tưởng
- Tứ Thần Túc xuất trần cao thượng
- Ngũ Căn cùng Ngũ Lực trợ duyên
- Thất Giác Chi bảy pháp tinh chuyên
- Bát Chánh Đạo thực hành rốt ráo.
Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I ) *MLH – 017A
Ba Mươi Bảy Pháp lành TrợĐạo
Là con đường duy nhất cho ta
Giải thoát ra khổ cảnh Ta-Bà
Chứng đạo quả Vô Sinh Bất Diệt.
* * *
TỪ BI NGUYỆN :
Nguyện cầu tám hướng mười phương
Chúng sinh muôn loại hãy thường an vui
Dứt trừ oan trái nhiều đời
Bao nhiêu đau khổđến hồi duyên tan
Hại nhau chỉ chuốc lầm than
Mê si điên đảo vô vàn lệ châu
Nguyện cho vô bệnh, sống lâu
Nguyện cho thành tựu, phước sâu đức dày
Nguyện cho an lạc từđây
Dứt trừ thống khổ, đắng cay, oán hờn
Dứt trừ kinh sợ, tai ương
Bao nhiêu phiền não, đoạn trường vĩnh ly
Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri
Sống đời thanh tịnh, từ bi vẹn toàn.
HỒI HƯỚNG :
Con xin hồi hướng phước này
Thấu đến quyến thuộc đâu đây cho tường
Cùng là thân thích tha phương
Hoặc đã quá vãng, hoặc thường hiện nay
Chúng sinh ba giới, bốn loài
Vô tưởng, hữu tưởng, chẳng nài đâu đâu
Nghe lời thành thực thỉnh cầu
Xin mau tựu hội lãnh thâu phước này
Bằng ai xa cách chưa hay
Cầu xin Thiên Chúng báo ngay hiện tiền
Thảy đều thọ lãnh phước duyên
Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I ) *MLH – 018A
Dứt trừ tội lỗi, thoát liền nạn tai
Nguyện nhiều Tăng Chúng đức tài
Đạt thành Thánh quả, hoằng khai đạo lành
Nguyện cho Phật Pháp thịnh hành
Năm nghìn năm chẵn, phước lành thế gian.
PHỤC NGUYỆN :
– Namo Buddhàya – Namo Dhammàya ;
– Namo Sanghàya.
– Namo Sakya Muni Buddhàya.
Do thiện sự mà chúng con đã làm, cóđược chút ít phước duyên nào, xin thành tâm hồi hướng đến Chư Thiên, chư Thiện thần Hộ Pháp trong mười muôn triệu thế giới Sa-Bà, nhất là Chư Thiên, Thiện Thần tại Việt Nam và Mỹ Quốc – xin các ngài hoan hỷ thọ nhận và tiếp tục hộ trì Chánh Pháp.
Phổ nguyện : Ánh sáng Giác ngộ rực rỡ, Bánh xe Chánh pháp thường quay, Mưa hòa gió thuận, Thế giới hòa bình, Đất nước mạnh giàu, người người no ấm.
Cửa Thiền thanh tịnh, Bốn Chúng an hòa. Ân sâu Thầy Tổ& Cha Mẹ dưỡng sinh – nguyện cho các ngài : càng tăng ruộng phước. Trời, Người ba cõi đều được lợi lạc vô biên.
Thứ nguyện : Âm siêu dương thạnh, biển lặng mây trong. Noản, thai, thấp, hóa - bốn loại chúng sinh, nương theo Phật Pháp tu hành, đều trọn thành Phật Đạo.
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC :
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo.
* * *
Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I ) *MLH – 019A
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammàsambuddhassa
Kính lạy Thế Tôn muôn đời
Là bậc Ứng Cúng – Trời Người quy y
Chứng đắcquảChánh Biến Tri
Tự Ngài giác ngộ, không thầy dạy cho.
*
**
Con xin thành kính đảnh lễ đức Thế Tôn. Ngài là đấng Toàn Tri Diệu Giác, vô lượng Từ Bi. Ngài đã bẻ gãy bánh xe sinh tử luân hồi, đã diệt tận Vô Minh phiền não, là bậc Thầy của cả Chư Thiên và Nhân Loại.
Con xin thành kính đảnh lễ Pháp Bảo, là những phương lương dược, có công năng cứu chữa căn bệnh trầm kha sinh tử của chúng sinh.
Con xin thành kính đảnh lễ Tăng Bảo, là những bậc thừa hành Chánh Giáo, bên ngoài có Y Bát chân truyền, bên trong có Giới Định Tuệ làm căn bản ; dù đã đắc quả thánh (Thánh Tăng) hay còn phàm (Thanh tịnh Tăng) đều gọi là Phước Điền của Chư Thiên và Nhân Loại.
Thi Hóa Trung Bộ Kinh ( Tập I ) *MLH – 020A
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện đắc Như Lai chân thiệt nghĩa.
Pháp Phật diệu huyền rất cao sâu
Trăm nghìn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe, thấy chuyên trì tụng
Nguyện giải Như Lai nghĩa nhiệm mầu.