Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nam Phương Đốn Ngộ (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng) 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️

16/10/202115:02(Xem: 18176)
Nam Phương Đốn Ngộ (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng) 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️


Khóa Tu Học Online 6-05



Vài cảm nhận khi dự thính bài pháp thoại
“ NAM PHƯƠNG ĐỐN NGỘ”
qua Zoom Phật Pháp Online USA lần thứ 6 với Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng
(8:30 pm thứ sáu 15/10/2021 giờ New York
11:30am, Thứ Bảy, 16/10/2021 giờ Úc Châu )

Kính đang Thầy bài viết khi nghe pháp thoại quá tuyệt vời hôm nay. Kính tri ân và đảnh lễ Thầy , hy vọng bài thơ con cúng dường ...mọi người đều đồng cảm . Kính , HH


Tôi đã không ngạc nhiên lắm khi nghe vào lúc bắt đầu vấn đáp Thượng Tọa Chúc Đại người hướng dẫn chương trình đã tán thán sự tham dự của nhiều học nhân Phật Tử từ khắp Liên Châu .

.Vì sao vậy ? Có lẽ chẳng riêng tôi, phải nói những ai đã từng được nghe xuyên suốt hơn 250 bài của Thầy về Tổ Sư Thiền ( từ Ấn, Trung Hoa đến Việt Nam) trong mùa đại dịch Covid-19 khởi đầu từ tháng 5/2020 đến nay và có lẽ sẽ tạm ngưng sau 30/11/2021 vì Phật Sự , đều ngưỡng phục Đức độ Từ Bi và Hạnh nguyện Hoằng Pháp độ sinh của TT Giảng Sư .

Lần này khi được thông báo TT Giảng Sư sẽ tiếp tục bài tuần trước với chủ đề Nam Phương đốn ngộ ....tôi đã tìm nghe lại hai bài Đốn ngộ Tiệm Tu và Lục Tổ Huệ Năng được đến với Phật Tử khắp nơi và Đạo Tràng Quảng Đức nói riêng, vào hai ngày 14-15/8/2020 . ( mấy tháng đầu tiên TT giảng mỗi buổi sáng sớm không ngừng nghĩ sau công phu sáng ) và háo hức đợi chờ bài giảng mới vừa để kiểm soát mức độ tu tập của mình sau một năm học online Tổ Sư Thiền với Ngài vừa để ghi nhận thêm nhiều điều mới lạ mà hai buổi giảng trước tôi chưa thọ nhận đầy đủ.

Quả đúng vậy, bài pháp thoại hôm nay Thầy vừa tập hợp những tông phái được nở ra năm cánh từ những đại đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng và tiếp tục truyền thừa đến nay tại VN và hải ngoại dù hiện tại Phật tử có thiên hướng về Tịnh Độ nhưng một ngày không xa Thiền Tịnh song tu sẽ mạnh mẽ được khôi phục ...

Với sự quảng bác biện tài , Giảng Sư nhắc lại ngũ diệp từ đóa hoa Lục Tổ Huệ Năng như sau:

Lục Tổ có 33 môn đệ đắc pháp, trong đó nổi bật nhất là 5 vị làm cho Thiền Tông đời sau được hưng thịnh và ảnh hưởng lớn trong Phật Giáo Trung Quốc:

Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng, từ pháp mạch Mã Tổ này sinh ra Tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng.
Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư, từ pháp mạch này sinh ra Tông Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn.
Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, tác giả của Chứng Đạo Ca và quyển Thiền Tông Vĩnh Gia Tập nổi tiếng
Thiền sư Nam Dương Tuệ Trung, từng làm Quốc Sư.
Thiền sư Hà Trạch Thần Hội, người phát dương tông chỉ, đưa Thiền Nam Tông trở thành chính thống.

Đặc biệt, từ hai vị Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư, Thiền Tông sản sinh vô số các Thiền sư danh tiếng truyền bá tư tưởng Đốn Ngộ, Thiền Tông trở thành Pháp môn phổ biến, thịnh hành nhất vào các thời Đường, Tống. Được truyền qua nhiều nước như Việt nam, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Hơn thế nữa Giảng Sư đã minh chứng không phải vào thời Lục Tổ Thiền đốn ngộ mới hình thành mà vào thời Đức Thế Tôn với kinh Bahiya trong Tiểu Bộ kinh - Chỉ với năm phút nhiệm mầu , Ngài Bahiya đã chứng được Vô Sanh pháp nhẫn: "Vậy này Bàhiya, Ông cần phải học tập như sau: "Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là các thức tri ". Như vậy, này Bàhiya, Ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau"

Và cũng như trường hợp của Ngài Đại Trí Xá Lợi Phất. Ngài Xá-lợi-phất là một người đầy nghi ngờ trước khi nhập Tăng đoàn Đức Phật khi gặp Tỉ-khâu A-thuyết-thị (pi. assaji). Thấy gương mặt trang nghiêm sáng ngời, phong độ thanh thoát của A-thuyết-thị, Chỉ sau khi nghe A-thuyết-thị trả lời bằng bốn câu kệ trứ danh, sau được gọi là "Duyên khởikệ":

 

若法因緣生

法亦因緣滅

是生滅因緣

佛大沙門說

Nhược pháp nhân duyên sinh

Pháp diệc nhân duyên diệt

Thị sinh diệt nhân duyên

Phật Đại sa-môn thuyết.

Các pháp nhân duyên sinh

Cũng theo nhân duyên diệt

Nhân duyên sinh diệt này

Phật Đại sa-môn thuyết.


Nghe xong, ngài Xá-lợi-phất liền ngộ được Đạo Lý Duyên Khởi, chứng sơ quả Tu Đà Hoàn, một trong Tứ Thánh Quả.



tt nguyen tang (10)


Những lời truyền trao này đã khiến tôi liên tưởng đến một đoạn giảng của TT Thích Trí Siêu gần đây về sự tương quan mật thiết của Thiền Tứ Niệm Xứ và Thiền Đốn Ngộ.

Kính trích đoạn một ít từ lời giảng TT Thích Trí Siêu : Tổ Sư Thiền và Thiền Tứ niệm Xứ tuy thấy khác nhưng thật ra cũng không thể gọi là khác được. ( Vì một bên đặt nặng về lý, còn một bên chỉ dạy về sự. )

 

Về lý thì Thiền Tông quả là độc nhất vô nhị, người học khi hỏi một đàng thì lại được trả lời một nẻo để cho tăng sinh cố gắng tìm được lý thuyết sâu xa ở đó.

Nhưng về sự, tức phần thực hành tu tập thì Thiền Tông vẫn nằm gọn trong Tứ Niệm Xứ.

Cổ Đức xưa có câu:


Đốn ngộ tuy đồng Phật
Đa sanh tập khí thâm
Phong đình ba thượng dũng
Lý hiện niệm du xâm.

Dịch nghĩa là:

Đốn ngộ tuy đồng Phật
Nhiều đời tập khí sâu
Gió ngừng sóng vẫn đập
Lý hiện niệm còn xâm.


Khi đốn ngộ thì chỗ thấy không khác chư Phật, song tập khí chất chứa từ nhiều đời, nhiều kiếp không thể một lúc mà sạch hết.

Cần phải nổ lực buông xả vọng tưởng, lâu ngày mới hết, như gió đã dừng mà sóng chưa lặng, phải đợi thời gian từ từ nó mới yên.

Chân lý đã thấy rõ rồi mà vọng niệm vẫn còn xâm lấn mãi. Vì thế sau khi giải ngộ cần phải cố gắng tu hành mới được chứng ngộ.

Về lý thì Thiền bặt ngôn ngữ nhưng về sự thì không ngoài việc "diệt trừ vọng tưởng".

Muốn diệt trừ vọng tưởng không có pháp nào khác hơn ngoài Chánh niệm (Samma-Sati) là chi thứ 7 trong Bát Chánh đạo (Ariya-Magga).

Chánh niệm là gì? Có phải là ghi nhớ một cách chân chánh không? Niệm luôn miệng " Nam mô A Di Đà Phật " có phải là chánh niệm không. Đầu óc luôn luôn nghĩ đến giáo lý Phật pháp có phải là chánh niệm không?

Trên phương diện hành Thiền, Chánh niệm cần được hiểu là quán niệm một cách chân chánh, chân chánh ở đây còn có nghĩa là khách quan.

Vậy chánh niệm là quán niệm, hay rõ hơn là quán sát và ghi nhận một cách khách quan. Phải quán niệm khi nào, lúc nào?

Việc thực hành quán niệm không thể nằm ngoài bốn lãnh vực (bốn niệm xứ), đó là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.

Trở về Thiền Tông, ta thường nghe nói: gánh nước, bửa củi là Thiền, lặt rau, hái cỏ cũng là Thiền.

Xem ra ở đây có khác gì Niệm thân (Kàyanupassanà) của Tứ Niệm Xứ: "Khi thở vào một hơi dài, hành giả biết mình đang thở vào một hơi dài...". Trong mỗi cử động của thân thể: đi, đứng, nằm, ngồi Thiền Sư đều giữ chánh niệm, không cho tâm phóng đi một cách bừa bãi theo vọng tưởng, đó chính là niệm thân vậy.

Các Thiền Sư có lúc đánh đau điếng hoặc xô đệ tử què chân, đó không phải đánh thức người đệ tử trở về niệm thọ (Vedanànupassanà) là gì?

Nhà Thiền có câu: "Không sợ niệm khởi mà chỉ sợ giác chậm" có nghĩa là không sợ vọng niệm khởi lên, mà chỉ sợ không tỉnh thức nhận liền ra nó. Đó có khác gì niệm Tâm (Cittànupassanà) của Tứ Niệm Xứ?

Xưa kia Tổ Huệ Khả không chịu niệm Tâm, phải chờ đến lúc gặp Tổ Đạt Ma bảo: "đem tâm ra ta an cho", mới chịu trở về tìm tâm.

Nhân nghe tiếng mưa rơi, nhìn thấy hoa nở.v.v... mà nhận ra bổn tánh, đó phải chăng thuộc về niệm pháp (Dhammànupassanà)?

Tu Thiền cần phải diệt vọng tưởng. Muốn diệt vọng tưởng phải có chánh niệm, mà chánh niệm không ngoài Tứ Niệm Xứ.

Vậy Tứ Niệm Xứ là phép thực hành căn bản của Thiền.

Tổ Sư Thiền và Như Lai Thiền có chung về nguyên lý nhưng khác nhau về thực hành mà thôi, tuỳ căn cơ chúng sinh ... - "Muôn dặm nhờ thuyền đều đến triều vua." Lời dạy Thiền sư Tịnh Không

Và kính xin được trở lại bài giảng hôm nay khi Giảng Sư bắt đầu với tiểu sử của Ngài Huệ Năng

Sư họ Lô (zh. 盧),người Tân Châu, sinh trong một gia đình nghèo, cha sư làm quan bị giáng chức tới Tân Châu, Nam Hải và định cư tại đây.

Khi sư lên 3 tuổi thì cha mất, lớn lên giúp mẹ bằng cách bán củi. Một hôm, trong lúc bán củi, nghe người ta tụng kinh Kim cương, sư bỗng nhiên có ngộ nhập. Nghe người đọc kinh nhắc đến Hoằng Nhẫn, sư liền đến tìm học. Hoằng Nhẫn nhận ra ngay căn cơ của Sư, nhưng không truyền pháp ngay, bắt tiếp tục chẻ củi, vo gạo. Truyền thuyết nổi tiếng về việc truyền tâm ấn cho Huệ Năng và việc phân đôi hai phái Thiền Nam-Bắc được kể lại như sau:

Hoằng Nhẫn biết tới lúc mình phải tìm người kế thừa nên ra lệnh cho học trò mỗi người viết kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ. Cuối cùng chỉ có Thần Tú, một đệ tử với tri thức xuất sắc mới dám làm. Thần Tú viết bài kệ, so sánh thân người như cây Bồ-đềvà tâm như tấm gương sáng và người tu hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Sư đang làm việc trong bếp, nghe đọc bài kệ, bèn nhờ người viết bài kệ của mình như sau:

菩提本無樹。
明鏡亦非臺
本來無一物。
何處有(匿)塵埃

Bồ-đề bổn vô thụ,

Minh kính diệc phi đài

Bổn lai vô nhất vật,

Hà xứ hữu (nặc) trần ai?

Bồ-đề vốn chẳng phải cây,

Gương sáng chẳng phải đài

Xưa nay vốn không phải vật,

Nơi nào dính bụi trần?


Nghe bài kệ, Hoằng Nhẫn biết căn cơ của sư vượt hẳn Thần Tú, nhưng sợ di hại nên nửa đêm gọi sư vào thất và thuyết trọn kinh Kim cương cho sư. Đến câu "Đừng để tâm vướng víu nơi nào" (ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm 應無所住而生其心), sư hoát nhiên đại ngộ.

Ngũ Tổ nói: "Chư Phật xuất thế là một việc trọng đại, nên tùy theo căn cơ cao thấp khác nhau mà hướng dẫn, cho nên mới có các chỉ ý mười địa, ba thừa, nhanh chậm làm Giáo môn. Nhưng Thế Tôn đã đem pháp môn vô thượng thâm diệu, trong sáng sâu xa là Chánh pháp nhãn tạng chân thực truyền đạt cho đệ tử thứ nhất là Đại Ca-diếp Tôn giả, lần lượt truyền qua 28 đời. Đến Tổ Đạt Ma thì sang tới Đông Độ này, được Khả đại sư nối tiếp đến hôm nay. Nay ta đem Pháp bảo cùng với Cà-sa trao lại cho ông. Hãy khéo giữ gìn, đừng để pháp đứt đoạn". Rồi đọc kệ truyền pháp:

Phiên âm:

Hữu tình lai hạ chủng

Nhân địa quả hoàn sinh

Vô tình ký vô chủng

Vô tính diệc vô sanh.

Tạm dịch:

Hữu tình đến gieo mầm

Nhờ đất trái nẩy sinh

Vô tình đã không giống

Không tính cũng không sinh.


Sư quỳ xuống nhận y và pháp, nói: "Pháp, con đã nhận, còn y sẽ trao cho ai?".

Tổ nói: "Xưa, lúc đầu Tổ Đạt Ma đến đây, vì chưa ai tin nên phải truyền y làm biểu minh đắc pháp. Nay tín tâm mọi người đã muồi, chiếc y sẽ là đầu mối tranh giành. Vậy nên đến ông thì dừng lạy không truyền nữa. Ông nên đi xa ẩn lánh, đợi thời cơ mà hành đạo, bởi lẽ người nhận y, mạng như tơ mành".

Sư hỏi: "Nên ẩn nơi đâu?", Tổ nói: "Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn". tức là muốn khuyên sư đi về phương Nam. Khi tiễn sư xuống thuyền, Tổ muốn tự chèo đưa sư sang sông, sư bèn nói: "Khi mê thầy độ, ngộ rồi tự độ" và tự chèo qua sông.

Suốt 15 năm sau, sư ở ẩn, và trong thời gian này vẫn là cư sĩ. Sau đó, sư đến chùa Pháp Tính ở Quảng Châu. Đó là nơi sản sinh công án nổi tiếng "chẳng phải gió, chẳng phải phướn" (Vô môn quan, công án 29). Sau khi sư chen vào nói "tâm các ông động" thì Ấn Tông, vị sư trụ trì của chùa hỏi sư: "Nghe nói y pháp Hoàng Mai đã truyền về phương Nam, phải chăng là hành giả?" Sư không thể giấu giếm, bèn thuật nguyên do việc đắc Pháp. Ấn Tông bèn tự chấp lễ đệ tử, thỉnh cầu được nhận pháp yếu của Thiền và nói với chúng: "Ấn Tông ta đây thực là phàm phu, nay mới được gặp Bồ-tát thân phàm" Và thỉnh sư đưa y bát ra để cho chúng được chiêm ngưỡng.

Ngày 15 tháng giêng, Ấn Tông mời các bậc danh đức đến làm lễ cạo tóc cho sư. Đến ngày 8 tháng 2, Trí Quang Luật sư chùa Pháp Tính đứng ra làm lễ thọ cụ túc giới cho sư. Giới đàn này do Ngài Tam Tạng Cầu-na-bạt-đà-la triều (Lưu) Tống thiết lập. Ngài Tam Tạng Bạt-đà-la từng thọ ký: "Sau này sẽ có Bồ- tát thân phàm thọ giới tại đàn này". Và cuối thời Lương, có Chân đế Tam tạng đã tự tay trồng hai cây Bồ-đề bên cạnh đàn và nói với chúng: "Sau 120 năm, sẽ có bậc Đại pháp sĩ dưới cội cây này diễn pháp vô thượng thừa độ vô số chúng sinh", tức là chỉ cho Lục Tổ Huệ Năng vậy..

Sau khi thọ giới cụ túc xong, sư ở lại chùa Pháp Tính giảng về giáo pháp của Thiền Tông, chúng học giả tăng tục đến dự nghe pháp rất đông.

Sang năm, vào ngày 8 tháng 2, Sư nói với môn nhân: "Ta không định lưu tại đây mà muốn trở về nơi ẩn khi xưa". Ấn Tông cùng hơn ngàn người cả tăng lẫn tục làm lễ tiển đưa sư về chùa Bảo Lâm.

Quan Thứ sử Thiều Châu là Vi Cứ đã thỉnh sư đến chùa Đại Phạn thuyết giảng pháp vi diệu và thọ giới vô tướng tâm địa. Môn đồ là Pháp Hải Thiền sư đã chép lại thành sách tên gọi Đàn Kinh, truyền bá rộng rãi trong đời.

Sau đó, Sư trở về Tào Khê, thuyết giảng Pháp môn Đốn Ngộ. Học giả thường không dưới ngàn người.

Vua Võ Tắc Thiên từng sai sứ là Tiết Giản đem thư chiếu đến mời sư vào cung thuyết pháp. Sư dâng thư từ chối vì đau yếu, nguyện chung thân ở nơi rừng núi.

Vua bảo Tiết Giản đến gặp sư hỏi đạo rồi truyền lại cho vua nghe, Tiết Giản nghe sư nói pháp liền đại ngộ, . Đó là Lấy Vô Niệm làm Tông, lấy Vô Tướng làm thể và lấy Vô Trụ làm gốc

Vô Niệm (không nghĩ tưởng) làm TÔNG,

Vô Tướng (không có hình tướng) làm THỂ.

Vô Trụ (không để tâm vào đâu cả) làm GỐC.

Ngài dạy Định-Huệ (thiền-định, trí-tuệ) vốn NHẤT THỂ chẳng phải hai, Định là Thể của Huệ, Huệ là Dụng của Định, ngay trong lúc Định có Huệ, ngay trong lúc Huệ có Định. Ngài ví dụ đèn và ánh sáng, đèn là Thể của sáng, sáng là Dụng của đèn, tên tuy có hai, Thể vốn chỉ một, Định-Huệ cũng vậy.

Về Tọa (ngồi) Thiền Ngài dạy như sau:

- Đối với cảnh giới bên ngoài: tâm niệm chẳng khởi lên gọi là Tọa.

- Đối với bên trong: thấy tự tánh mình chẳng động gọi là Thiền.

Về Thiền-Định Ngài giảng:

- Bên ngoài lià tất cả các tướng (hình tướng) gọi là Thiền.

- Bên trong tâm chẳng loạn (động) gọi là Định.

Tiết Giản đỉnh lễ từ biệt về triều, dâng thư tâu lại lời dạy của sư. Vua hạ chiếu kính tạ và cúng dường cà-sa ma nạp rất quý và 500 xấp lụa, một chiếc bát vàng.

Đầu niên hiệu Tiên Thiên, Sư báo cùng tứ chúng: "Ta nhận y - pháp của Nhẫn đại sư, nay vì các ông mà nói pháp, nhưng không truyền lại y. Ấy cũng vì gốc tin các ông đã đủ, cứ nhất định chẳng nghi là đã đủ xác nhận sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của ta". Và đọc kệ:

Tâm địa hàm chư chủng

Phổ vũ tất giai sanh

Đốn ngộ hoa tình dĩ

Bồ-đề quả tự thành.

Đất tâm dung các giống

Mưa khắp tất nẩy sanh

Đốn ngộ - hoa bừng nở

Bồ-đề quả tự thành.


Nói kệ xong, Sư bảo: "Pháp này không hai, tâm ấy cũng như vậy. Đạo ấy thanh tịnh cũng không có các tướng. Các ông chớ nên chấp quán tịnh và ngoan không cái tâm. Tâm vốn đã tịnh, không thể giữ - bỏ. Mọi người hãy gắng lên, tùy duyên mà đi tới!".

Sư giảng pháp hóa độ chúng sinh qua 40 năm, đến ngày 6 tháng 7 năm ấy, sư bảo đệ tử đến chùa Quốc Ân Tân Châu lập tháp Báo Ân

Sang năm, vào ngày 8 tháng 2, Sư nói với môn nhân: "Ta không định lưu tại đây mà muốn trở về nơi ẩn khi xưa". Ấn Tông cùng hơn ngàn người cả tăng lẫn tục làm lễ tiển đưa sư về chùa Bảo Lâm.

Qua tiểu sử Ngài Huệ Năng cho ta thấy Sư được coi là người sáng lập Thiền Đốn Ngộ (Thiền Nam Tông)- với chủ trương đạt giác ngộ trực tiếp, nhanh chóng. Sư tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là "Kinh", một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền.

Theo như tôi được học thông thường ngữ lục để chỉ các lời dạy của Tổ thế mà tự truyện về Ngài lại được gọi là Pháp Bảo Đàn Kinh

Cũng nhờ Pháp bảo đàn kinh với phẩm thứ 8 đoan đối đáp giữa Chí Thành ( đệ tử Ngài Thần Tú) và Lục Tổ mà chúng ta mới có cơ hội nghe được những lời chỉ dạy về Giới Đinh Huệ và tùy căn cơ người, dùng đủ loại phương tiện cởi mở sự trói buộc của chúng sanh, giải khai chấp trước của chúng sanh, Lục Tổ nói rằng ...pháp này không có một tên, cho nên tạm đặt cho nó là tam muội – chánh định chánh thọ.

(Chỗ ta nói pháp không lìa tánh mình. Lìa Bổn thể mà nói pháp, là chấp trước tướng mà nói, thế thì tánh mình thường mê. Phải biết muôn pháp đều do tánh mình khởi dụng, thế mới thiệt là pháp Giới Định Huệ. Hãy nghe ta kệ:

Tâm địa không quấy, thì tánh mình Giới.

Tâm địa không si, thì tánh mình Huệ.

Tâm địa không rối, thì tánh mình Định.

Không thêm không bớt, mình thành Kim Cang.

Thân tới thân lui, vốn là Tam-muội.)

Do vậy mà người viết được nghe rằng : " ngày nay nhiều người đề nghị đừng dùng danh từ Thiền Đốn Ngộ mà đúng hơn nên dùng chữ Tổ Sư Thiền." Vì chữ Thiền Đốn Ngộ hay làm cho người ta hiểu lầm là nếu tu theo Thiền này sẽ mau giác ngộ.

Nhưng thật ra "tu nhất kiếp, ngộ nhất thời ", hay "tu vạn kiếp ngộ nhất thời" cũng có. Đạo Phật dạy về nhân quả, có gieo nhân giác ngộ mới mong gặt được quả giác ngộ. Khi có đầy đủ "nhân và duyên" thì quả giác ngộ tự thành.

Nếu có người nào bảo rằng không học mà biết, không tu mà thành thì người đó không nói đạo Phật. Thí dụ trường hợp của Ngài Huyền Giác (tác giả Chứng đạo Ca) đương thời gọi Ngài là "Nhứt túc giác" (một đêm giác ngộ).

Trước khi đến tham vấn Lục Tổ, Ngài đã tu hành giới hạnh trang nghiêm, chuyên tu Chỉ-Quán (Samatha-Vipassanà). Nhân duyên đã đầy đủ, đến khi gặp Lục Tổ liền được ấn chứng.

Đó cũng là lời kết của Giảng Sư cho 2 bài giảng Bắc Phái tiệm Tu và Nam Phương Đốn Ngộ như say : ĐÓN NGỘ, TIỆM TU LÀ MỘT, KHÔNG CÓ TIỆM TU THÌ KHÔNG THỂ NÀO ĐỐN NGỘ .

Từ trước đến nay người viết vẫn phải tự hỏi thầm : Chủ trương của Thiền Tông là gì? Có phải được dẫn từ bốn câu kệ của Tổ Đạt Ma:

"Chẳng lập văn tự,

Truyền ngoài giáo lý,

Chỉ thẳng tâm người,

Thấy tánh thành Phật".

Dịch từ

Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật.

Và phải chăng chính bài kệ này đã làm cho Thiền Tông nổi bật với tánh cách kỳ dị của nó. Người ngoài mới nhìn vào có thể lầm lẫn, tưởng Thiền là một pháp môn đặc biệt, tu theo đó mau thành Phật.

Nhưng trộm nghĩ ....thật ra bài kệ trên nếu đem áp dụng vào thực tế thì nó không còn đúng hẳn với ý nghĩa của nó nữa.

Xưa kia các Thiền Sư mỗi ngày đều thượng đường nói pháp, lời lẻ câu văn của các Ngài có thể....tầm thường, không văn hoa như những danh từ dùng trong Kinh điển, nhưng tất cả đều ngụ ý giảng giải giáo lý của Phật, làm sao có thể nói "chẳng lập văn tự, truyền ngoài giáo lý" được.

Và đến hôm nay qua bài giảng kéo dài hơn một giờ 30 phút , người viết đã tự thu thập cho mình những điều thật tâm đắc như sau :

1- Nếu như Băc Tông của Thần Tú trương dùng suy luận, tu tập dần dần theo chỉ dạy của kinh sách để đi đến giác ngộ thì Nam Tông của Huệ Năng lại đề ra lý thuyết “đốn ngộ”, nghĩa là giác ngộ một cách nhanh và bất ngờ.

" Lúc Tổ Sư ở chùa Bảo Lâm tại Tào Khê, thì Thần Tú Đại sư ở Chùa Ngọc Tuyền tại Kinh Nam. Bấy giờ cả hai phái đều diễn hóa rất thạnh hành, người đều gọi là Nam Năng Bắc Tú, cho nên mới có phân hai phái Đốn và Tiệm ở phương Nam và phương Bắc. Nhưng người học đạo chưa biết được cái tông thú.

Tổ Sư mới gọi đại chúng mà bảo rằng: "Pháp vốn là một tông, còn người thì có Nam và Bắc. Pháp tức là một thứ, còn chỗ thấy thì có mau chậm. Pháp không có mau chậm. Bởi con người có tánh sáng tối, cho nên mới gọi là mau chậm."

( trích đoạn trong phẩm thứ 8 về Đốn Tiệm trong Pháp Bảo Đàn Kinh )

Sau một thời gian thì chỉ còn lại Thiền phương Nam là thịnh hành hơn cả, nên Thiền Tông lại được gọi với một danh từ khác là Thiền Đốn Ngộ. Chính phái Thiền này được truyền thừa từ Trung Hoa sang Việt Nam do Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi, và chư Tổ sau này đều thuộc giòng Thiền này.

2- Lục Tổ Huệ Năng nói rằng mọi chúng sinh từ ngu dốt đến thông minh đều có sẵn Phật Tính, bởi do có phiền não nên mới thành chúng sinh, chỉ cần ngộ thì lập tức Thành Phật.

Sư nói: "Trí Bát Nhã (Phật Tính), người đời vốn tự có, Chỉ bởi tâm mê, không thể tự thấy, nên phải nhờ bậc đại thiện tri thức chỉ ra mới thấy được tính. Nên biết người ngu kẻ trí đều sẵn có tính Phật, chẳng khác chi nhau. Chỉ bởi mê ngộ chẳng đồng, nên mới có người ngu kẻ trí" (trích Pháp Bảo Đàn Kinh, Đoàn Trung Còn dịch).

Tư tưởng này vốn đã được nhắc đến nhiều trong các kinh điển Đại Thừa về đề tài Phật Tính và trong bài kệ về Tông chỉ Thiền Tông của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma.

Lục Tổ Huệ Năng chủ trương đốn ngộ, tức là cái ngộ ngay tức khắc, trực nhận bản thể Phật Tính, thanh tịnh, tuyệt đối ngay chính mình, không phải do đọc hiểu văn tự, ghi nhớ, hiểu biết mà được, và cũng không cần phải trải qua nhiều cấp bậc tu chứng như trong các Kinh Điển Đại Thừa (thập tín, thập nguyện, thập hạnh, thập trụ, thập hồi hướng..) hay Nam Tông (4 cấp bậc A-la-hán), và đối với thuyết này, Lục Tổ là nhân vật ví dụ điển hình, sư tuy không biết chữ nghĩa, cũng không được tiếp cận với Kinh điển nhiều, nhưng lại có cái ngộ siêu việt.

Về Thiền Định và Trí Huệ, Lục Tổ cho hai thứ này vốn là một, không có phân biệt. Sư nói: " Thiện tri thức, pháp môn này lấy Định- Huệ làm gốc. Các ngươi chớ lầm rằng Định với Huệ có khác; Định Huệ vốn nhất thể, chẳng phải là hai. Định là thể của Huệ, Huệ là dụng của Định, ngay trong lúc huệ có định, ngay trong lúc định có huệ, thấu được nghiã này tức là định huệ đồng nhau. Các ngươi học đạo chớ cho là trước phát định sau phát huệ, hay trước huệ sau định có khác, kiến giải như vậy thành ra pháp có nhị tướng. Miệng tuy nói lành mà trong tâm chẳng lành, tuy có định huệ mà định huệ chẳng đồng nhau. Nếu tâm miệng đều lành, trong ngoài nhất thể, tức là định huệ đồng nhau" (Trích Kinh Pháp Bảo Đàn, Hòa thượng Thích Duy Lực dịch)

Về vấn đề Tọa Thiền (ngồi thiền), Lục Tổ cho rằng đối với cảnh giới bên ngoài: tâm niệm chẳng khởi lên gọi là Tọa (ngồi),đối với bên trong thấy tự tánh mình chẳng động gọi là Thiền. Còn Thiền Định, Lục Tổ nói rằng bên ngoài lìa tất cả các tướng

3- So sánh với các Tông phái khác thì Thiền Tông vẫn đặc biệt hơn, với tánh cách phóng khoáng tự tại trong việc dùng phương tiện để chỉ cho người tu nhận lại tánh giác hay "bản lai diện mục".

Nghĩa là ""Phải thấy rõ được tự tánh của mình: Luôn thanh tịnh, không lay động, vượt lên trên các cặp đối đãi, và trong tâm hành động tương ứng với các hiểu biết này. Đó chính là kiến tánh thành Phật.

Khi nhận được tánh giác rồi, người tu phải tiếp tục tinh tấn thực hành chánh niệm (Samma-Sati), xả trừ vọng tưởng đến ngày hoàn toàn sống với tánh giác (hằng giác) thì lúc đó gọi là chứng ngộ. Có chứng ngộ mới thoát khỏi sanh tử luân hồi, còn giác ngộ chỉ mới là chánh kiến (Samma Ditthi), phần đầu trong Bát Chánh Đạo (Ariya Magga).

Và điều sau cùng kính tri ân Giảng Sư đã giới thiệu tác giả tác phẩm "Thiền đốn ngộ" của Thiền Sư Huệ Hải Đại Châu qua tích truyện sau đây :

Sơ khởi, Sư đến tham vấn Mã Tổ (Thiền sư Đạo Nhất). Mã Tổ hỏii

– Từ đâu đi đến ? Sư thưa :

– Ở Việt Châu chùa Đại Vân đến.

– Đến đây tính cầu việc gì ?

– Đến cầu Phật pháp.

– Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?

Sư lễ bái thưa:

– Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?

– Chính nay ngươi hỏi ta là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.


Ngay câu nói này, Sư tự nhận bản tâm không do hiểu biết, vui mừng lễ tạ. Sư ở lại đây hầu Mã Tổ sáu năm.

Sau vì bổn sư tuổi già, Sư phải về phụng dưỡng. Từ đây, Sư tàng ẩn chỗ thâm ngộ của mình, hiện bề ngoài như kẻ tầm thường. Sư thầm soạn quyển Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn này, bị Huyền Ấn là cháu trong Pháp môn lén lấy đem trình Mã Tổ.

Mã Tổ xem xong, bảo đại chúng:

– Việt Châu có Đại Châu (hạt châu lớn) tròn sáng thấu suốt, tự tại không ngại.

Khi ấy, ở trong chúng có người biết Sư họ Châu bèn rủ nhau lần lượt tìm đến thưa hỏi và nương tựa. Từ đó, người ta gọi Sư là Hòa thượng Đại Châu.

Sư từng từ chối không chịu chỉ dạy, nhưng chúng cứ khư khư theo hầu, bất đắc dĩ Sư phải dùng biện tài vô ngại để giáo hóa.

Và bài Cư Trần Lạc Đạo của Điều Ngự Giác Hoàng vua Trần Nhân Tông. Sau khi xuất gia, vua có hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ. Bài này là trái tim của Trúc Lâm Đại Sĩ, và trong địa vị văn học, đây là sáng tác tiếng Nôm đầu tiên tại Việt Nam.

Cư Trần Lạc Đạo là một bài phú gồm mười Hội, trình bày phương pháp tu tập của Trúc Lâm Đại Sĩ nhưng được nhắc nhiều nhất qua câu kệ kết thúc :

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.

Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch;

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

Kính đa tạ Giảng Sư ...., kính bạch Ngài bài pháp thoại quá tuyệt vời và súc tích vì đáng lẽ con còn phải kể đến những đoạn thú vị trong 10 phẩm của Pháp Bảo Đàn Kinh nhất là phẩm thứ tám về Đốn Tiêm nhất là khi Lục Tổ hỏi TS Chí Thành:là cốt lõi của bài pháp thoại hôm nay nhưng chỉ ghi lại chút ít vì phải viết thêm về câu hỏi của một học nhân Bảo Minh Toàn về vấn đề từ thiện và "thế nào là định thiện và tán thiện ?" Chỉ xin tạm ghi vài đoạn đáng nhớ như sau

Sư nói: "Thầy ngươi dạy chúng môn nhơn như thế nào?"

Đáp: "Thường chỉ dạy đại chúng trụ tâm quán tịnh, ngồi mãi không nằm."

Sư nói: "Trụ tâm quán tịnh, ấy là bịnh, chẳng phải thiền. Thường ngồi là câu thúc cái thân, đối với Đạo-lý có lợi ích chi đâu?

Hãy nghe ta kệ:

Khi sống ngồi không nằm,

Thác rồi nằm chẳng ngồi.

Thiệt đồ xương thịt thúi,

Sao luống lập công phu?"

Và Chí Thành lại làm lễ mà bạch rằng: "Kẻ đệ tử theo ở với Tú Đại sư, học Đạo chín năm, mà chẳng đặng tỏ sáng. Nay nghe Hòa Thượng nói một lần, liền tỏ sáng Bổn tâm. Việc sống thác là việc lớn, đệ tử xin Hòa Thượng mở lượng từ bi chỉ dạy."

Sư rằng: "Ta nghe nói thầy ngươi dạy người pháp Giới Định Huệ, nhưng chưa rõ thầy ngươi nói cái hạnh tướng của Giới Định Huệ như thế nào, hãy nói cho ta nghe."

Chí Thành bạch: "Tú Đại sư nói: ‘Các điều dữ chớ làm, gọi là Giới. Các điều lành vâng làm, gọi là Huệ. Giữ ý mình trong sạch, gọi là Định.’ Thầy tôi dạy như vậy, chưa rõ Hòa Thượng dùng pháp nào mà dạy người?"

Sư nói: "Nếu ta nói có pháp dạy người, tức là nói dối với ngươi. Ta chỉ tùy phương tiện mà giải thoát cho người. Phương tiện ấy giả gọi là Tam-muội. Cứ như chỗ thầy ngươi nói về Giới Định Huệ thiệt không thể nghĩ bàn được. Nhưng chỗ thấy về Giới Định Huệ của ta lại khác."

Trong phần vấn đáp , Giảng Sư thật khéo khi trả lời một câu hỏi gọi là " hot "trong xã hội Việt Nam hiện nay khi nối kết với Pháp Bố Thí trong Lục Độ Ba La Mật.

Bố thí ba-la-mật là sự bố thí cùng tột mà người thực hành phải thật sự đạt được “tánh không” ....theo tam luân không tịch mới có thể thực hành được một cách đúng nghĩa và trọn vẹn công đức lành của việc thực tập bố thí Ba-la-mật.

Có nghĩa là ...

Để chuyên chở đầy đủ tinh thần ba-la-mật, bố thí phải mang ý nghĩa của ‘tam luân không tịch’ có nghĩa là 3 không (không thấy người cho, không thấy người nhận, và không thấy vật thí) và được luân chuyển liên tục, không dứt.

Phần nhiều, chúng ta quan niệm là phải bố thí cho đúng người và đúng cách. Nhưng theo tinh thần Bát-nhã là bố thí mà không thấy có cho, có nhận, và có vật thí. Khi mình phát tâm muốn cho là mình cứ cho. Bất kể người kia là ai, và vật thí là gì, tài thí hay pháp thí, v.v… không quan trọng.

Và để đạt được tinh thần ‘tam luân không tịch’ chúng ta phải thay đổi cách suy nghĩ và thái độ của mình. Thay vì nghĩ về mình, chúng ta nghĩ nhiều về người và tự đặt câu hỏi mình có thể làm được gì cho người khác. Các bậc hiền nhân trên thế giới đều làm vậy. Họ luôn đặt tinh thần phụng sự người khác lên trên hết; thậm chí họ không cần biết người mà họ phụng sự là ai. Họ chỉ cần biết là việc đó đang cần giúp đỡ. Thế là họ ra tay ngay! Sỡ dĩ họ cho mà không cần đền trả và cũng không cần biết người nhận là ai chỉ vì họ tìm thấy niềm vui, và hạnh phúc thật sự trong khi cho.

Lời kết :

Kính tán dương công hạnh tuyệt vời của Giảng Sư , với hạnh nguyện giáo dục và hoằng pháp độ sinn , ....Với kinh nghiệm chủ biên Trang Nhà Quảng Đức một trang mạng Phật Giáo chứa cả một thư viện kinh điển Tam Tạng , những bài pháp thoại của Giảng Sư đã đi vào lòng người và dần khắc ghi mãi trong tâm để từ đó mà tự chuyển hoá dần trên bước đường tu học.

Kính bạch Ngài, với pháp thí vô cùng trân quý của Ngài đã giúp cho người nghe hiểu được rằng :Chung quanh ta đang có biết bao người đang tìm cách thực hiện hạnh bố thí ba-la-mật, và thấy rằng thế gian mình đang sống vẫn còn có rất nhiều người tốt, muốn làm những việc gì đó để cống hiến cho đời, làm cuộc đời đẹp thêm và đáng sống. "

Phải chăng Ngài muốn nhắn nhủ " Chúng ta đều là người du hành đến thế giới này. Đến một thời điểm nào đó, tất cả chúng ta đều phải ra đi! Cái chúng ta để lại cho đời như lòng từ bi, bố thí mà không cần đền trả ....và chỉ có Pháp thí là một di sản quý giá, một bài học giá trị cho đời. .....

Nhưng một khi đã học Tứ Trọng Ân , thì một chữ được nghe dạy cũng phải tôn trọng là Thầy huống chi là trong mùa đại dịch thế kỷ này chúng con đã được nghe hơn mấy trăm bài pháp thoại.

Kính đảnh lễ Thày và kính cúng dường Thầy bài thơ tri ân tuy vụng về nhưng chứa trọn thành ý của một người học Phật Pháp ...



Kính ngưỡng và tri ân Giảng Sư TT Thích Nguyên Tạng,
Pháp học , pháp hành quảng bác biện tài
Tuy Tịnh độ ưu thế trong thời đại này
Vẫn hoài bảo khôi phục Tổ Sư Thiền ...vi diệu!

Loạt bài Đốn Ngộ Tiệm Tu...cốt lõi chính yếu
Đâu phải từ Huệ Năng ...Thiền đốn ngộ phát sinh ?
Thời Đức Thế Tôn đã có Bahiya kinh ...
Và Đại trí Xá Lợi Phất ...phút đầu tiên Dự Lưu quả !

Minh chứng thêm ....Thiền Sư Huệ Hải,
.....Điều Ngự Giác Hoàng ...Đạo sáng tỏa
Muôn dặm đến triều vua phải nhờ thuyền
" Cư Trần Lạc Đạo " thả tuỳ duyên
Tương quan căn trần thức ... chánh niệm tỉnh giác !

Kính đa tạ ... lời truyền trao uy lực cao ngát
Dòng sữa pháp tinh tế, quý giá ... thành hình
Từ cội nguồn ... chảy nhanh tác động tâm linh
Kính đảnh lễ ...Bậc xứng danh Pháp khí !

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật


Huệ Hương
Melbourne 16/10/2021






298_TT Thich Nguyen Tang_Nam Phuong Don Ngo





Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được tham dự buổi học pháp trực tuyến do Sư Phụ giảng trên khắp Mỹ, Âu và Úc châu, bài giảng với chủ đề “Nam Phương Đốn Ngộ”, được truyền qua Zoom Phật Pháp Online do TT Thích Chúc Đại, Trụ Trì Chùa Giác Sơn, Maryland, Hoa Kỳ, làm MC điều hợp chương trình. Đây là bài giảng thứ 298 trong mùa giãn cách xã hội vì đại dịch Corona.

Sư Phụ kể về tiểu sử của Lục Tổ Huệ Năng, vì Ngài được người đời tôn xưng là “người xiển dương pháp tu đốn ngộ ở phương nam”, pháp tu giúp hành giả trực nhận ngay đó tâm Phật của mình mà giác ngộ tức khắc, nên gọi là “Nam Phương Đốn Ngộ”, trong khi ngài Thần Tú thì có công hướng dẫn quần chúng tu tập theo pháp môn “tọa thiền tập định” ở miền bắc, từ từ diệt trừ phiền não vô minh để tiến giác ngộ, nên được gọi là “Bắc Phái Tiệm Tu” (xem bài này).

Lục Tổ Huệ Năng sinh năm 638 vào thời đại nhà Đường, Phụ Thân của ngài là cụ ông Lư Hành Thao, Mẫu Thân của Ngài là cụ bà Lý Thị. Cha ngài là một vị quan nổi tiếng dưới triều vua Đường Cao Tổ, làm việc ở huyện Uyển Bình, tỉnh Hà Bắc, nhưng bị vu khống và bị đầy ải đến biên cương Lãnh Nam, Quảng Châu, giáp ranh với Cao Bằng, Lạng Sơn, Việt Nam. Năm lên ba tuổi, Lục Tổ mồ côi Cha, do nhà nghèo ngài không được đi học, ở nhà đốn củi, lấy tiền nuôi Mẹ. Năm ngài 22 tuổi (Mẹ ngài đã gần 70 tuổi, vì cụ bà 46 tuổi mới sanh hạ ngài), trong một lần vác củi đến nhà ông Viên Ngoại tên là An Đạo Thành, ngài nghe vị này tụng kinh quá hay, ngài đứng lại để lắng nghe hết thời kinh. Đợi xong thời kinh, Ngài liền hỏi tụng Kinh gì, bác Viên Ngoại bảo là Kinh Kim Cang, vì do ông đi lễ Chùa Đông Thiền ở Huyện Huỳnh Mai, xứ Kỳ Châu, nghe Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giảng rằng nếu ai thọ trì Kinh Kim Cang thì sẽ thấy Tánh và thành Phật. Nhờ nhân duyên từ kiếp trước, nên Ngài Huệ Năng đã được bác Viên ngoại này giúp cho 10 lượng bạc để lo phụng dưỡng mẹ già, rồi Ngài an tâm lên đường để tìm đến Huỳnh Mai tu học. Đi bộ hơn 30 ngày mới đến được tỉnh Hồ Bắc, tọa lạc của Chùa Đông Thiền. Khi vào ra mắt Ngũ Tổ, Tổ hỏi: "Con là người phương nào, đến đây cầu việc gì?" , ngài Huệ Năng đáp: "Con là người ở Lãnh Nam, đến đây chỉ cầu thành Phật" - Ngũ Tổ bảo: "Là người Lãnh Nam, giống người Nam-man mọi rợ, thành Phật thế nào được ?”, ngài Huệ Năng liền thưa: "Con người tuy phân có Nam Bắc, nhưng Phật tánh nào có Bắc Nam?".

Qua cách đối đáp, Tổ Hoằng Nhẫn nhận ra ngay đây không phải là người thường mà là người có thể trở thành truyền nhân của mình làm rạng danh Phật pháp sau này, nên Tổ cho xuống bếp làm công quả, bữa củi, gánh nước, giã gạo, nấu cơm... Hơn tám tháng sau, Ngũ Tổ thấy đã đến lúc phải truyền tâm ấn cho người kế thừa, nên tập chúng và ra lệnh cho chúng đệ tử mỗi người viết kệ trình bày sở chứng của mình. Lúc ấy chỉ có Thầy Thần Tú, một đệ tử lớn, là một vị giáo thọ sư của hơn 500 đệ tử của Ngũ Tổ, thay thế Ngũ Tổ dạy chúng, vị này đã trình kệ:

"Thân thị Bồ đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài,
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.” 

Nghĩa là:

“Thân là cội Bồ đề,
Tâm như đài gương sáng,
Phải luôn nhớ lau chùi,
Chớ để dính bụi trần
.”


Ngài Thần Tú ví thân người như cây Bồ-đề và tâm người như đài gương sáng, người tu hành phải lo lau chùi bụi bặm kiết sử phiền não, gìn giữ tấm gương lòng luôn được thanh tịnh để trí tuệ chiếu sáng. Lúc ấy, Tổ Huệ Năng đang giã gạo trong bếp, nghe đại chúng đọc bài kệ, biết người làm chưa thấy tánh, nên Ngài đã nhờ người khác viết lên vách bài kệ của mình như sau:

"Bồ-đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài,
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai?”.

Nghĩa là:

Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi trần ?".
 


Nghe bài kệ, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết đệ tử Huệ Năng vượt hẳn sư huynh Thần Tú, đã kiến tánh, nhưng sợ tổn hại đến Huệ Năng, nên nửa đêm gọi Ngài vào tịnh thất và thuyết giảng lại trọn Kinh Kim Cang cho Huệ Năng. Khi nghe đến câu "Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” tức là: Hãy nương nơi không có chỗ nương, mà khởi tâm kia". Tâm kia chính là tâm thanh tịnh, tâm giác ngộ, tâm giải thoát; có nghĩa là nếu để tâm mình dính mắc vào đối tượng nào đó thì mình bị ràng buộc, phiền não và khổ đau. Ngài Huệ Năng hoát nhiên đại ngộ và thốt ra bài kệ:

 

Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Nào ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Nào ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ.
Nào ngờ tự tánh vốn chẳng lay động.
Nào ngờ tự tánh hay sanh vạn pháp.”

 

Ngũ Tổ liền truyền y bát cho ngài với bài kệ:

 

Hữu tình lai hạ chủng

Nhơn địa quả hoàn sanh

Vô tình diệc vô chủng

Vô tánh diệc vô sanh


Nghĩa là:

 

Hữu tình đến gieo giống,
Nhơn đất quả lại sanh,
Vô tình đã không giống,
Không tánh cũng không sanh.

 

Truyền pháp xong, Ngũ Tổ liền đưa đệ tử đến bến đò Cửu Giang và chèo thuyền đưa đệ tử qua sông. Ngài Huệ Năng thưa: "Con thỉnh Sư Phụ ngồi, khi chưa ngộ thì thầy độ, nay ngộ rồi, con tự độ”.

Ngũ Tổ bảo: “Không sao để ta đưa con lần cuối, con không những phải tự độ mà còn phải độ tha nữa, về sau Phật pháp do con mà được phát dương, con đi ba năm, sư phụ sẽ viên tịch. Nay con đi an vui, nỗ lực đi về phương Nam, không nên nói pháp sớm, nếu không con sẽ gặp nạn”.


Lục Tổ từ giã Sư phụ Ngũ Tổ rồi cất bước đi về miền Nam. Hơn hai tháng sau, ngài đến núi Đại Dữu thuộc huyện Nam Hùng, tỉnh Quảng Đông, thì có vài trăm người đuổi theo, muốn cướp y bát lại cho sư huynh Thần Tú, vì họ không thể chấp nhận một vị cư sĩ mà có thể nhận được y bát của Ngũ Tổ. Một vị tăng họ Trần, tên Huệ Minh, trước kia là tướng quân bậc Tứ phẩm, tánh hạnh thô tháo, chạy trước mọi người, nên đuổi kịp ngài Huệ Năng.

 

Ngài Huệ Năng để y bát trên tảng đá và nói: “Y bát này là biểu tín, có thể dùng sức mà tranh giành được sao ?”, nói xong ngài liền ẩn núp trong lùm cây gần đó, ngài Huệ Minh đến cầm y bát lên mà không nhúc nhích, mới kêu rằng: “Cư sĩ, cư sĩ! Tôi vì pháp mà đến chớ không phải vì y bát”.

Lúc đó ngài Huệ Năng bước ra ngồi trên tảng đá. Huệ Minh liền làm lễ và trình bạch “cuối mong cư sĩ vì tôi nói pháp”.

Lục Tổ bảo: “ông đã vì pháp mà đến thì nên dứt sạch các duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ vì ông mà nói”. Huệ Minh im lặng giây lâu.

Lục Tổ Huệ Năng bảo: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh”.

Ngay câu nói đó, ngài Huệ Minh liền đại ngộ và sụp lạy tạ ơn Lục Tổ và xin làm đệ tử. Lục Tổ bảo : “ Ta cùng ông cùng thờ thầy Huỳnh Mai, khéo tự hộ trì”.

Ngài Huệ Minh liền lễ tạ từ biệt và tự đổi lại đạo hiệu là Đạo Minh để tránh chữ đầu của tên Thầy.

Sư phụ có nhấn mạnh lời khai thị dành cho Huệ Minh: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác” là bài pháp đầu tiên của Lục Tổ Huệ Năng, đó là pháp môn bất nhị mà Lục Tổ đã truyền dạy xuyên suốt trong cuộc đời của ngài về sau. Thói thường con người sống và đau khổ trong sự đối đãi, hai bên, không thiện thì ác, không thị thì phi, không phải thì trái, không thương thì ghét, không gần thì xa, không tối thì sáng, không phiền não thì bồ đề, không sanh tử thì niết bàn… nên Lục Tổ phải tuyên bố giáo thuyết bất nhị, không hai, ngay từ lúc đầu để làm kim chỉ nam cho con đường giáo hóa của Ngài. Muốn vào cửa giải thoát (giải thoát môn) hành giả phải vượt qua cửa không hai (bất nhị môn), có nghĩa là bất cứ khi nào hành giả còn thấy ngã và ngã sở, còn chấp có & chấp không thì mãi mãi còn ở bên ngoài cửa.

  

Thời gian sau đó, trong suốt 15 năm, Ngài Huệ Năng phải lánh nạn, ở ẩn trong nhóm người thợ săn. Họ bắt Ngài giữ lưới, thấy có thú rừng lọt vào thì mở ra thả, có lúc bị họ bắt gặp, họ phạt ngài, treo hai chân lên cây cao, chúc đầu xuống đất, trải qua 3 ngày 3 đêm, thật là khổ nạn cho ngài, nhưng ngài vẫn kham nhẫn để chờ ngày ra hoằng pháp.

 

Tiếp đó, ngài đến làng Thiều Châu, kết bạn với nho sĩ Lưu Chí Lược, vị này có người cô ruột là Tỳ Kheo Ni Vô Tận Tạng, người thường tụng kinh Đại Niết- bàn. Khi nghe ni sư tụng kinh, Lục Tổ hiểu ngay diệu nghĩa, liền giảng giải cho ni sư nghe. Ni sư cầm quyển kinh hỏi tổ chữ này đọc thế nào? Tổ bảo: “Chữ thì không biết, nhưng nghĩa thì xin cứ hỏi”. Ni sư Vô Tận Tạng hỏi: “ chữ còn không biết thì làm sao ngài hiểu nghĩa?”. Tổ nói: “Diệu lý của chư Phật không liên quan gì đến văn tự”. Ni sư kinh ngạc và thấy quá diệu kỳ nên thông báo cho các bậc bô lão kỳ đức khắp trong làng rằng ngài Huệ Năng là bậc đại sĩ đã chứng đạo, nên thỉnh giáo và cúng dường, do đó các vị bô lão thỉnh Lục Tổ về trụ ở chùa Bảo Lâm, vì ngôi chùa cổ này vào cuối đời Tuỳ do chiến tranh loạn lạc chùa trở thành nơi hoang tàn. Từ trên nền ngôi chùa cổ đó, ni sư trùng tu lại thành ngôi phạm vũ trang nghiêm, rồi thỉnh Lục Tổ đến trụ trì và giảng pháp. Không bao lâu khi Tổ đến, nơi đây trở thành chốn tòng lâm hưng thịnh. Sư Phụ có nhắc lại là Sư phụ có hướng dẫn phái đoàn hành hương Tu Viện Quảng Đức viếng thăm ngôi chùa Bảo Lâm này  (xem hình) vào tháng 8 năm 2015 trên đường phái đoàn bay sang Paris, Pháp Quốc để dự lễ Khánh Thành Chùa Khánh Anh và Lễ Đại Tường Hòa Thượng Thích Minh Tâm.

 

Cuối cúng, cơ duyên đã đến, Lục Tổ về chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, nghe thấy hai vị Tăng tranh cãi quyết liệt về tấm phướn treo trước hiên chùa. "Phướn động hay gió động?". Tổ Huệ Năng khai thị: "không phải gió động, cũng không phải phướn động, mà tâm các vị động".

Lúc ấy Sư Trụ Trì đạo hiệu Ấn Tông đến hỏi: "Nghe nói y pháp Huỳnh Mai đã truyền về phươngNam, phải chăng là hành giả đây?”. Lúc đó Lục Tổ mới tự nhận mình là truyền nhân của Ngũ Tổ. Ngài cho đại chúng chiêm bái y bát của Ngũ Tổ truyền trao để làm bằng chứng. Lúc đó Sư Ấn Tông nói với đại chúng rằng “Ấn Tông ta đây thực là phàm phu, nay mới được gặp Bồ-tát thân phàm", nói xong liền đảnh lễ Tổ và xin Tổ nhận làm đệ tử. Tiếp đó ngày rằm tháng giêng, Sư Ấn Tông cung thỉnh các bậc danh đức đến làm lễ thế phát xuất gia cho Lục Tổ và đến ngày mùng 8 tháng 2 tổ chức Giới Đàn truyền Cụ Túc Giới cho sư.

Sự kiện này đã tương ứng với lời tiên tri trước đó 200 năm, rằng vào đời nhà Tống, có Ngài Tam Tạng Cầu Na Bạt-đà-la (394–468) khi viếng chùa này đã nói "Sau này sẽ có Bồ- tát thân phàm thọ giới tại chùa này". Rồi vào cuối thời nhà Lương (năm 557), có Pháp sư Chân Đế tự tay trồng hai cây Bồ-đề sau nhà Tổ chùa Pháp Tánh và nói với chúng đệ tử rằng: "Sau 120 năm, sẽ có bậc Đại sĩ ngồi dưới cội cây này diễn nói pháp vô thượng thừa, hóa độ vô số chúng sanh", tức là chỉ cho Lục Tổ Huệ Năng ngày nay vậy.

Sư phụ kể phái đoàn hành hương Tu Viện Quảng Đức đã đến viếng Chùa Pháp Tánh 3 lần, vào các năm 2007, 2009 và 2015 (xem hình)

 

Lục Tổ Huệ Năng bắt đầu công cuộc giáo hóa ở chùa Pháp Tánh, rồi về Chùa Bảo Lâm năm xưa ở suối Tào Khê và xiếng dương pháp tu đốn ngộ, tức chứng ngộ ngay tức khắc, một sự nhảy vọt bất ngờ, mang tính trực giác, trong lúc Ngài Thần Tú chủ trương tiệm ngộ, pháp tu giác ngộ từ từ theo thời gian, dùng suy luận, tu tập theo phương pháp tọa thiền tập định của kinh sách mà giác ngộ.


Lời dạy của Lục Tổ được đúc kết thành bản Kinh Pháp Bảo Đàn, tóm tắt ý kinh:

1/Lục Tổ kể lại quá trình Ngũ tổ Hoằng Nhẫn trao truyền y pháp
2/Lục Tổ giảng pháp cho chúng đệ tử và các lời đối đáp của Ngài với đệ tử hoặc thiền khách.
3/ Những lời dặn dò phó chúc cho hàng đệ tử trước khi Lục Tổ viên tịch.

Kinh Pháp Bảo Đàn gồm có 10 phẩm như sau:
1. Phẩm Hành Do
2. Phẩm Bát Nhã
3. Phẩm Nghi Vấn
4. Phẩm Định Huệ
5. Phẩm Toạ Thiền
6.Phẩm Sám Hối.
7. Phẩm Cơ Duyên
8. Phẩm Đốn Tiệm
9. Phẩm Tuyên Chiếu
10.Phẩm Phó Chúc.

Sư phụ kể lại câu chuyện rất lý thú trong phẩm thứ 8 Đốn Tiệm, về một đệ tử của Ngài Thần Tú từ miền Bắc đến nghe trộm pháp của Lục Tổ tại chùa Tào Khê như sau:

 

Trong thời pháp thường nhật ở chùa Bảo Lâm (Tào Khê), Lục Tổ dạy rằng: Pháp vốn một tông mà người có Nam Bắc; pháp chỉ một thứ nhưng sự thấy có nhanh chậm. Sao gọi là đốn tiệm? Pháp chẳng đốn tiệm, theo căn tánh con người thì có lợi độn, nên gọi đốn tiệm”.

 

Nhưng đồ chúng của ngài Thần Tú thường hay khinh chê Lục Tổ ở miền Nam là người không biết chữ, đâu có gì hay?  Ngài Thần Tú khuyên can đệ tử rằng “Lục Tổ đắc Vô Sư Trí, triệt ngộ pháp tối thượng thừa, ta chẳng bằng được. Vả lại được Thầy ta Ngũ Tổ thân truyền y pháp, đâu phải khi không mà được! Ta tiếc chẳng thể đi xa để được thân cận, uổng chịu quốc ân. Các ngươi chớ bị kẹt nơi đây, nên đi đến Tào Khê để tham học”.

 

Một hôm,  Sư Thần Tú sai đệ tử của mình là Tỳ Kheo Chí Thành: “Con thông minh có trí, hãy thay ta đến Tào Khê nghe pháp, tận tâm ghi nhớ các điều thấy nghe, về lập lại cho ta”.

 

Ngài Chí Thành vâng lời, bèn đến Tào Khê, theo chúng tham học mà không nói từ chỗ nào đến. Mọi việc Lục Tổ đều biết rõ nên bảo giữa thời thuyết pháp: Hiện nay có kẻ trộm nghe pháp đang ẩn trong hội này”.

 

Tỳ Kheo Chí Thành bèn bước ra lễ bái, bạch rõ nguyên do.


Lục Tổ nói: “Ngươi từ  Chùa Ngọc Tuyền đến đây tức là mật thám vậy”.
Tỳ Kheo Chí Thành đáp: “con không phải”
Lục Tổ hỏi: “Sao lại không phải ?”
Tỳ Kheo Chí Thành đáp: “Lúc chưa nói ra thì phải, bây giờ con đã nói ra rồi thì không phải nữa”.

Lục Tổ hỏi: “Thầy ngươi lấy gì để dạy đệ tử ?”.

Tỳ Kheo Chí Thành đáp: “Thầy con thường khuyên dạy chúng trụ tâm quán tịnh, ngồi mãi chẳng nằm”

Lục Tổ nói: “Trụ tâm quán tịnh là bệnh chứ không phải thiền, ngồi mãi là trói thân, với đạo có ích lợi gì? Hãy nghe ta nói kệ:

 

“Sanh lai tọa bất ngọa,

Tử khứ ngọa bất tọa.

Nguyên thị xú cốt đầu,

Hà vi lập công khoá “

 

Hòa Thượng Duy Lực dịch nghĩa:

“Lúc sống thì ngồi chẳng nằm,

Lúc chết thì nằm chẳng ngồi.

Vốn là đống xương hôi thúi,

Đâu thể thành lập công phu ?”.

 

Ngài Chí Thành đảnh lễ Lục Tổ và thưa: “Đệ tử ở nơi Thần Tú Đại Sư học đạo chín năm mà không khế ngộ, nay nghe Hoà Thượng nói một lời liền nhận được bản tâm. Sanh tử của đệ tử là việc lớn, xin Hoà Thượng từ bi giáo hóa cho con”.

 

Lục Tổ Sư dạy: Ta nghe nói Thầy ngươi dạy người học pháp: giới, định, huệ; chẳng biết hành tướng giới định huệ như thê nào, hãy nói thử xem. 

 

Tỳ Kheo Chí Thành thưa: Thần Tú Đại Sư nói: những điều ác chớ làm gọi là giới, những điều lành phụng hành gọi là huệ, ý căn tự trong sạch gọi là định. Đại Sư dạy như thế, chưa biết Hoà Thượng lấy pháp gì để dạy người?

 

Lục Tổ nói: Nếu nói có pháp dạy người ấy là dối ngươi, ta chỉ tuỳ theo căn cơ để mở trói, giả danh tam muội. Như giới định huệ của Thầy ngươi thật là bất khả tư nghì, giới định huệ của ta lại khác.

Tỳ Kheo Chí Thành hỏi: Giới định huệ chỉ nên có một, sao lại có khác?

 Lục Tổ nói: Giới định huệ của Thầy ngươi độ người đại thừa, giới định huệ của ta tiếp người tối thượng thừa, chỗ ngộ giải chẳng đồng nên sự thấy có nhanh chậm. Hãy nghe ta nói, xem có giống Thầy ngươi chăng! Ta thuyết pháp chẳng lià tự tánh, lià tánh thuyết pháp, khiến cho tự tánh thường mê, ấy là tướng thuyết. Nên biết tất cả pháp đều từ tự tánh khởi dụng, ấy là chơn pháp của giới định huệ vậy. Hãy nghe kệ đây:

 

Tâm địa vô phi tự tánh giới,

Tâm địa vô si tự tánh huệ,

Tâm địa vô loạn tự tánh định.

Bất tăng bất giảm tự kim cang,

Thân khứ thân lai bổn tam muội.

 

Hòa Thượng Duy Lực dịch nghĩa:

Tâm địa chẳng quấy tự tánh giới,

Tâm địa chẳng si tự tánh huệ,

Tâm địa chẳng loạn tự tánh định.

Chẳng thêm chẳng bớt tự như như,

Thân đến thân đi vốn tam muội.

 

Tỳ Kheo Chí Thành nghe xong cảm tạ và trình kệ rằng:

 

Ngũ uẩn huyễn thân,

Huyễn hà cứu cánh.

Hồi thú chơn như,

Pháp hườn bất tịnh.

 

Hòa Thượng Duy Lực dịch nghĩa:

Ngũ uẩn thân huyễn hoá,

Huyễn đâu có cứu cánh.

Trở về với chơn như,

Chấp pháp chẳng thanh tịnh.

 

Lục Tổ khen là đúng, lại bảo đệ tử Chí Thành rằng: Giới định huệ của Thầy ngươi dạy người căn khí nhỏ, giới định huệ của ta dạy người căn khí lớn. Nếu ngộ được tự tánh, cũng chẳng lập Bồ Đề Niết Bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến, chẳng có một pháp có thể đắc, như thế mới được kiến lập vạn pháp. Nếu thấu lý này, cũng gọi là Bồ Đề Niết Bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người kiến tánh lập cũng được, chẳng lập cũng được, đi lại tự do, chẳng trệ chẳng ngại, cần dùng liền làm, cần nói liền đáp (làm và nói đều chẳng tác ý), khắp hiện hoá thân chẳng lià tự tánh, tức được thần thông tự tại, du hý tam muội, gọi là kiến tánh. 

 

Tỳ Kheo Chí Thành lại bạch: Thế nào là nghĩa chẳng lập?
Lục Tổ dạy: Tự tánh chẳng quấy chẳng si chẳng loạn, niệm niệm quán chiếu Bát Nhã, thường lìa pháp tướng, tự do tự tại, thuận nghịch đều được, có gì để lập? Tự tánh tự ngộ, đốn ngộ đốn tu, cũng chẳng thứ tự, cho nên chẳng lập tất cả pháp, các pháp tịch diệt, đâu có thứ lớp? 

 

Tỳ Kheo Chí Thành lễ bái xin nhập chúng tu học và nguyện làm thị giả hầu hạ Lục Tổ sớm chiều, không về miền Bắc nữa.  (Lược theo bản dịch của HT Thích Duy Lực)

 

Đại Sư Thần Tú cũng tâu lên Hoàng Đế Võ Tắc Thiên nên cung thỉnh Lục Tổ vào cung thuyết pháp. Vua ưng thuận và sai sứ là Tiết Giản đem thư chiếu đến mời Lục Tổ vào cung nhưng Lục Tổ từ chối vì đau yếu, nguyện chung thân ở nơi rừng núi. Vua bảo Tiết Giản đến gặp Lục Tổ hỏi đạo rồi truyền lại cho vua nghe, vì vua muốn biết pháp mầu vi diệu mà Lục Tổ giác ngộ là gì.

Sư Tiết Giản hỏi: Các thiền đức nơi kinh thành đều nói là muốn được ngộ đạo phải ngồi thiền tập định, nếu không nhờ thiền định mà mong được giải thoát thì chưa hề có vậy. Chưa biết cách dạy bảo của Tổ như thế nào?

Lục Tổ đáp: Đạo do tâm ngộ chẳng tại tọa. Kinh nói Nếu nói Như Lai có nằm có ngồi, ấy là kẻ hành tà đạo. Tại sao vậy? Vì tự tánh chẳng có chỗ đến, cũng chẳng có chỗ đi, chẳng sanh chẳng diệt, gọi là Như Lai Thanh Tịnh Thiền. Chư pháp không-tịch là Như Lai Thanh Tịnh Tọa, cứu cánh chẳng có một pháp để chứng đắc, huống chi là ngồi!

 

Sư Tiết Giản nói: Đệ tử về Kinh, Hoàng Đế ắt hỏi, xin Tổ từ bi chỉ thị tâm yếu, để về triều đình tâu lại hai vua và người học đạo ở kinh thành, thí như một ngọn đèn mồi cho trăm ngàn ngọn, khiến kẻ tối đều sáng, dùng sáng truyền sáng, sáng mãi chẳng hết.

Lục Tổ dạy: Đạo chẳng sáng tối, sáng tối là nghiã sanh diệt. Sáng mãi chẳng hết, cũng phải có lúc hết, vì sáng tối là đối đãi lập danh, nên Kinh Duy Ma Cật nói: Pháp chẳng thể so sánh, vì chẳng đối đãi vậy.

 

Sứ Tiết Giản hỏi: Sáng dụ cho trí huệ, tối dụ cho phiền não, người tu đạo nếu không lấy trí huệ để chiếu phá phiền não thì cái sanh tử đã từ vô thỉ, dựa vào đâu để ra khỏi?

Lục Tổ dạy: Phiền não tức Bồ đề, chẳng hai chẳng khác. Nếu nói lấy trí huệ để chiếu phá phiền não, ấy là kiến giải của kẻ nhị thừa, người đại căn thượng trí thì chẳng như vậy.

Sứ Tiết Giản hỏi: Thế nào là kiến giải của người đại thừa?

Lục Tổ dạy: Sáng với chẳng sáng, phàm phu thấy có nhị, người trí liễu đạt tánh ấy bất nhị, tánh bất nhị tức là thật tánh vậy. Thật tánh ở nơi phàm ngu mà chẳng bớt, nơi thánh hiền mà chẳng thêm; trụ nơi phiền não mà chẳng loạn, ngay nơi thiền định mà chẳng tịch, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đi chẳng đến, chẳng phải ở giữa, cũng chẳng bên trong bên ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng biến đổi, ấy gọi là đạo.

Sứ Tiết Giản hỏi: Sư nói chẳng sanh chẳng diệt, vậy đâu khác với ngoại đạo!
Lục Tổ dạy:  Ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là dùng diệt để dẹp sanh, dùng sanh để tỏ diệt, sanh nơi chẳng sanh, diệt nơi chẳng diệt. Ta thuyết chẳng sanh chẳng diệt là: tự vốn chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt, cho nên khác với ngoại đạo. Nếu ngươi muốn biết tâm yếu, nên đối với các pháp thiện ác đều chớ suy lường, tự nhiên được tâm thể thanh tịnh, trạm nhiên thường tịch, diệu dụng hằng sa.

Tiết Giản được chỉ dạy, hoát nhiên đại ngộ, lễ tạ Lục Tổ và từ giã về kinh, dâng biểu tâu thuật lại lời nói của Tổ. Vào ngày 3 tháng 9 năm ấy, vua ban chiếu khen ngợi và dâng tặng Lục Tổ chiếc Cà sa và bình bát thủy tinh, sai quan thứ sử Thiều Châu tu sửa lại chùa chiền, sắc phong cho nơi ở cũ của Tổ ở Tân Châu là Quốc Ân Tự. (Lược theo bản dịch của HT Thích Duy Lực)

Trong công cuộc giáo hóa độ sanh, hàng vạn người đã thừa hưởng pháp lạc của Lục Tổ, trong đó có 33 môn đệ đắc pháp, nổi bật nhất là 5 đại đệ tử:

1/Thiền Sư Nam Nhạc Hoài Nhượng, về sau sinh ra Tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng.

2/ Thiền Sư Thanh Nguyên Hành Tư, về sau sinh ra Tông Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn.

3/Thiền Sư Vĩnh Gia Huyền Giác, tác giả của Chứng Đạo Ca và quyển Thiền Tông Vĩnh Gia Tập nổi tiếng

4/Thiền Sư Nam Dương Tuệ Trung (Quốc sư triều vua Đường Túc Tông (711-762)

5/Thiền Sư Hà Trạch Thần Hội, người định tông chỉ, đưa Thiền Nam Tông trở thành chính thống.

 

Trước ngày thị tịch, Lục Tổ dạy chúng: "Ta nhận y-pháp của Hoằng Nhẫn Đại Sư, nay vì các con mà nói pháp, nhưng không truyền lại y. Ấy cũng vì gốc tin các con đã đủ, cứ nhất định không nghi là đã đủ xác nhận sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của ta, hãy nghe ta nói kệ:

Tâm địa hàm chư chủng
Phổ vũ tất giai sanh
Đốn ngộ hoa tình dĩ
Bồ-đề quả tự thành.

Dịch nghĩa:

Đất tâm dung các giống
Mưa khắp tất nẩy sanh
Đốn ngộ - hoa bừng nở
Bồ-đề quả tự thành.

 

Ngày mùng 3 tháng 8 năm ấy, Lục Tổ đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu, tắm rửa xong vào ngồi kiết già an nhiên thị tịch,  thọ thế 76 tuổi. Ngày 13 tháng 11 năm 713, chúng đệ tử đưa nhục thân xá lợi của Tổ nhập tháp tôn thờ tại nơi này. Vua Đường Hiến Tông tặng thụy hiệu Lục Tổ là Đại Giám Thiền Sư, Tháp hiệu là Nguyên Hòa Linh Chiếu.


Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Sư Phụ ban giảng bài pháp “ Nam Phương Đốn Ngộ” về Lục Tổ Huệ Năng, người tuy không biết chữ nhưng do túc duyên từ nhiều kiếp tiệm tu, nên kiếp này nghe lại câu kinh “Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm” mà ngài hoát nhiên đại ngộ. Quả thật cuộc đời của Lục Tổ Huệ Năng là một nguồn cảm hứng bất tận cho hàng đệ tử Phật ngày nay tìm về cội nguồn tâm linh, dù gian lao khổ nhọc đến mức nào nhưng hàng đệ tử chúng con vẫn quyết một lòng vượt qua để tiến về phía trước để lần theo bước chân của Ngài để sớm về đích giải thoát và giác ngộ. Con ước nguyện sau mùa dịch cúm Corona này có đủ thiện duyên để theo phái đoàn hành hương do Sư phụ hướng dẫn về thăm và đảnh lễ Lục Tổ.


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Cung kính và tri ơn Sư Phụ
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montreal, Canada)

 


Vieng tham Chua Nam Hoa Luc To Hue Nang (4)
Vieng tham Chua Nam Hoa Luc To Hue Nang (40)Vieng tham Chua Nam Hoa Luc To Hue Nang (55)

Vieng tham Chua Nam Hoa Luc To Hue Nang (170)Vieng tham Chua Nam Hoa Luc To Hue Nang (192)Vieng tham Chua Nam Hoa Luc To Hue Nang (248)

Hình ảnh phái đoàn Phật tử Tu Viện Quảng Đức viếng thăm đảnh lễ Nhục thân Lục Tổ Huệ Năng tại Chùa Tào Khê Nam Hoa Bảo lâm
ở Thiều Quang, Quảng Châu vào tháng 8 năm 2015, Mời xem hình tiếp




tt nguyen tang (5)tt nguyen tang (4)tt nguyen tang (13)tt nguyen tang (1)tt nguyen tang (6)



***
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567