Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06. Gặp Lại Sa-môn Đầu-đà

31/10/201205:20(Xem: 6312)
06. Gặp Lại Sa-môn Đầu-đà
HÀNH HƯƠNG TÂM LINH
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh

GẶP LẠI SA-MÔN ĐẦU ĐÀ

Đi? Nhưng đi đâu? Một câu hỏi lóe lên làm cho Triết Hựu lúng túng. Làm thế nào để có đời sống và cơm áo? Rồi mình sẽ làm gì? Rồi mình sẽ tư tưởng ra sao? Điều mà chàng tưởng là đã giải thoát rồi, nhưng khi bắt gặp thực tế, với hiện hữu tương quan, dính liền với mọi sinh hoạt xung quanh, chàng lại bị trói chặt lại y như cũ - nghĩa là vẫn còn những cái gọi là ràng buộc, hữu hạn, bóng tối và khổ đau.

Triết Hựu bần thần dừng chân lại. Sự giải thoát không phải chỉ giản dị như trong tư tưởng thôi, như tư và tưởng thôi - mà là một cái gì khác thế - một cái gì được thể hiện rỗng rang, tự do và vô ngại ở trong đời sống cụ thể - một cái gì sờ nắm được, ngửi được, tiếp xúc được như sự vật, thân xác, chén cơm và hơi thở nồng nặc của mọi người. Kẻ giải thoát họ làm gì? Họ uống ăn sinh sống ra sao để khỏi hệ lụy, mưu toan và thúc phược? Ngồi một chỗ - giải thoát toàn diện, vô duy - đợi sự chết đến lôi đi một cách bình thản? Có lẽ không phải thế. Là một cái gì tối thượng, nhiệm mầu hơn nhưng không khác lắm với cái bây giờ, chàng nghĩ.

Bước chân vô định dẫn chàng đến một đám đông. Người ta vừa nghỉ ngơi sau một đám rước các ngẫu tượng. Người ta tìm kiếm gì ở phía đằng sau hai tượng trưng âm dương linh thánh của thần Shìva? Những khuôn mặt đầy no thỏa mãn kia có đạt được một phần mười sáu bình an và chân phúc? Những tiếng: “aum, aum, aum...” từ sông Gangµ vọng lên - vọng lên từ ngàn đời có tẩy uế được tội lỗi? Đấng Krishna có hiện hữu đâu đây, trong thân xác trần tục nào - để nhìn ngắm công trình của Brµhma đã đến hồi rối ren và và ảo diệu. Phải chăng, con đường nào rồi cũng dẫn về nhất thể? Con đường hành động (karma yoga) không đã là một hình thức đại ngã đó sao? Con đường chiêm ngưỡng thờ phượng (bhakti yoga) không đã là hình thức vong ngã đó sao? Con đường trầm tư, thiền định (inana yoga) không đã từng cô lập mình trong một thế giới cách biệt, riêng tư, khoanh tay ở ngoài cuộc đời đó sao? Nó có thể là vong ngã hoặc đại ngã - con đường trầm tư, thiền định này - nhưng cả hai đều chẳng phải là chân phúc.

Triết Hựu uể oải lắc đầu bởi những câu tự vấn, tự giải liên tiếp tuôn tràn ra. Phải có thầy. Phải có một đấng Guru cho tâm hồn mới mong dẫn lộ cho ta từng bước một. Lý trí, kiến thức, kinh điển, hiểu biết chẳng dẫn ta đi đến đâu. Chúng đi vòng quanh!

Triết Hựu định quay lưng tránh một cuộc tranh luận giữa đường, nhưng có một giọng nói quen thuộc làm chàng chú ý: giọng nói của vị sa-môn đầu-đà. Một đám đông thanh niên đang vây lấy cội cây nhỏ.

- Chư hiền hỏi bần tăng thế nào là Thượng đế, bần tăng xin thưa là bần tăng không biết gì về ngài. Chư hiền hỏi bần tăng thế nào là nhất thể, bần tăng cũng xin thưa là chưa lần nào bần tăng tìm hiểu nhất thể để làm gì, nó có ích cho bần tăng ra sao. Đấng hằng cửu là ai? Tồn tại thế nào? Ngài hiện thân nhập thế có y báo, chánh báo hay vô sở bất tại? Có một điều, phải rồi, có một điều duy nhất thôi, là bần tăng tu hành để thoát khổ, để thoát khổ và giác ngộ đời sống - còn ngoài ra - xin thưa là bần tăng không biết gì đâu.

Triết Hựu đã đứng chen chân trong đám đông. Và nhìn vị sa-môn đầu-đà, chàng nghe lòng mình dâng lên một cảm xúc vô hạn.

Vị sa-môn nói xong, đám đông thanh niên bà-la-môn chợt cười rộ. Một người hỏi:

- Tôn giả không biết tại sao mình xuất gia làm sa-môn Thích tử? Lại không biết cả mình đang nói gì và nói với ai?

- Chư hiền – vị sa-môn chậm rãi đáp - Quả thật vậy, giới vọng ngữ là giới thứ tư mà một người cư sĩ áo trắng phải hành trì, nếu muốn được gọi là một Phật tử chơn chánh. Bần tăng là kẻ đã phát nguyện thọ trì những giới luật thù thắng hơn thế nữa. Chư hiền không tin ư?

- Chúng tôi xin rửa tai để nghe lời tôn giả.

Đôi mắt của vị sa-môn già chợt lóe sáng lên, đảo quanh một vòng - rồi gật đầu:

- Chư hiền, quý hóa thay, bần tăng sẽ nói. Chư hiền bảo bần tăng xuất gia nhưng bần tăng là cái gì mới được chứ! Nếu thân xác là bần tăng thì thân xác ấy là cái vô tri, nếu đắp y mang bát cũng không thể gọi là “xác chết xuất gia” được. Cái thân xác này thì, một bà-la-môn hay một thủ-đà-la thì cũng không khác mấy. Còn tư tưởng - thì cái tư tưởng ấy niệm niệm sinh diệt... Niệm này là bần tăng hay niệm nọ là bần tăng? Chư hiền ơi, thú thật là bần tăng đã bất khả tri. Đã không biết ngã thì làm sao biết về ngã sở? Suy lý ra thì quả thật, bần tăng nói mình không biết gì, đâu phải là lời nói dối?

Có một thanh niên bà-la-môn tức giận, nhưng bạn y đã lấy tay ngăn lại, hỏi tiếp:

- Cái thân xác thì ông Cù-đàm hoặc đống rác cũng giống nhau. Đồng ý. Rig-Veda dạy rằng: ý thức, ngươi phải im đi thì Atman mới hiển lộ. Nhưng Minh triết giáo chúng tôi nói rõ ràng hơn: Đấng ấy là thân xác và tư tưởng.

- Còn con người?

- Cũng thân xác và tư tưởng.

- Có gì khác nhau không giữa Đấng ấy và con người?

- Có chứ. Đấng ấy trong sạch, vắng lặng, thanh tịnh, sáng láng và thánh thiện. Đấng ấy là cha muôn loài, là bậc sáng-hóa-chủ, đại tự do, đại giải thoát, đại tự chủ, đại tự tại. Còn con người là nhiễm ô, tục lụy, ồn ào, não động, tối tăm, nô lệ, tử sinh và tội lỗi.

Vị sa-môn chắp tay lên trán nói:

- Cao thượng thay Đấng ấy. Vĩ đại thay Đấng ấy. Phúc lành thay Đấng ấy. Bần tăng chúc chư hiền lên đường để đến với ngài.

- Sao tôn giả không cùng lên đường với chúng tôi? Giáo lý Minh triết giáo và con đường nhập thể vô thượng?

- Vì bần tăng là kẻ tầm thường nên chỉ xin làm những việc tầm thường trong cuộc đời tầm thường.

- Tôn giả chịu an phận, đắm mình trong chốn bùn nhơ thế tục mà không chịu vươn ra cõi ngoài bằng phạm hạnh cao thượng ư?

- Cõi ngoài thì cao siêu quá. Cõi ngoài là ở ngoài cuộc đời chứ không phải ở trong cuộc đời. Bần tăng với thân xác và tư tưởng hữu hạn - ở trong cuộc đời - nên chỉ xin trọn vẹn, phận mệnh, tính thể với những gì hữu hạn.

- Chẳng khác gì một kẻ đang sống đời thân xác. Té ra tôn giả chỉ ngụy trang là sa-môn thôi?

- Bần tăng đang sống đời mở rộng! Chư hiền, bần tăng không có sống đời để đi đến cõi ngoài, cõi vô tự tính, cõi “chẳng liên hệ gì đến trần gian” này, mà quả thật, bần tăng chỉ sống đời mở rộng để đón nhận hài hòa muôn vạn ân sủng của cuộc đời.

Cuộc đối thoại đến đây đã làm cho đám thanh niên bà-la-môn không còn chịu đựng được nữa.

- Vậy ra tôn giả là một tên “khất cái” vô loại - một người thanh niên mỉm nụ cười độc địa nói - tôn giả sống trên tài sản và máu xương của kẻ khác. Sống và hưởng thụ. Sống và tiêu cực. Sống và thủ lợi. Sống và vị ngã. Sống và tham dục. Đấy có phải là sở tri, sở hành, sở đắc của những sa-môn Thích tử?

- Một Đấng-biếng-lười - bạn y tiếp với nụ cười khinh mạn - Một bậc thất nghiệp cao thượng!

- Một thân xác vật chất được quàng chiếc áo tinh thần, phạm hạnh để ngụy trang che mắt mọi người. Thượng đế sẽ không dung thứ cho những kẻ mạo danh là con cái của ngài như vậy.

- Một du thủ vô công rỗi nghề đang thực hành cái vô công rỗi nghề của y: hạnh “du thủ”. Hạnh du thủ phải chăng là mật hạnh của tôn giả?

Tiếng cười đắc thắng, ngạo mạn của đám thanh niên môn sinh Minh triết giáo vọng vào tai Triết Hựu làm chàng lùng bùng nhức nhối khó chịu. Chúng đã sống đời xa hoa, thân xác lại dám chỉ trích kẻ sống đời tinh thần phạm hạnh bằng lý luận tinh thần phạm hạnh. Thật chẳng có nghịch lý nào nghịch lý hơn thế nữa. Phải mà! Giáo chủ chúng cũng đã không từ bỏ đời phạm hạnh để tranh danh đoạt lợi như kẻ thế tục đó sao? Những lý luận về cái gọi là cầu an, tiêu cực, thụ hưởng - quả thật là ấu trĩ và thối tha không chịu được. Hay chúng đã thật sự bị sa-tăng cám dỗ? Sa-tăng đã đầu độc rỉ tai chúng nó - là loại khỏi cuộc đời những hình ảnh tâm linh, tự do và vô dục - để cho thế gian phóng túng vô độ, giết người, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, ích kỷ, tham lam, giật giành, vật chất, nhục thể…? Minh triết Vệ-đà, Áo-nghĩa-thư có dạy cho chúng như vậy đâu. Trái cây ngon ngọt của Adam và Eva là nọa tính từ uyên nguyên, từ đó lưu đày xuống trần gian thống khổ - thì không ai mà không hiểu rằng: Sa-tăng là ông tổ của duy vật luận - từ đó đánh mất thiên đàng. Không ăn trái cấm là chối từ sa-tăng và duy vật, là đi ngược dòng nghịch lưu, là hoàn nguyên bản mạt, là quy hồi nhất thể, là về bên chân Chúa. Ăn trái cấm là bắt tay với quỷ dữ, đồng lõa với ma vương để gieo rắc tai họa, lầm than và bóng tối lên trần gian. Chiếc thuyền Noe có còn không để chúng nó thấy rõ cơn phẫn nộ của Thượng đế? Tất cả chỉ là vật chất và thân xác, không có kiếp này và kiếp kia, đấy là lời rao của quỷ. Và đấy cũng là tư tưởng dẫn đạo cho những đời sống phi nhân, vô đạo và thú vật.

Cơn phẫn nộ của Triết Hựu chẳng khác gì cơn phẫn nộ của Thượng đế. Chúng đụng chạm đến cái thánh thiện bên trong chàng, đụng chạm đến nhân cách vời vợi của vị sa-môn - là chúng đã khai chiến sinh tử với chàng rồi. Bao nhiêu kiến thức mang theo từ cẩm nang của Thượng đế, chàng quên hết, chỉ còn nghe một tiếng rống duy nhất của con sư tử bên trong: “Hãy nhai nuốt lý luận của bọn chúng”. Thế là chàng chững chạc, hiên ngang, xô vẹt đám thanh niên, bước vào…

Triết Hựu cúi mình thật thấp đảnh lễ vị sa-môn - mà chàng vẫn đinh ninh là đấng Guru duy nhất của mình, là Người-xin-lửa trong đêm.

- Xin đức thầy cho phép con tranh luận với quý ngài môn sinh minh triết giáo đây về minh triết. Xin đức thầy cho phép con dùng đôi cánh tay của thần Sh×va để bẻ gãy lý luận của sa-tăng, của các bậc kim tiền này. Bạch đức thầy sa-môn! Lũ chúng chẳng hiểu gì minh triết, lại chẳng dám làm đồ đệ của sa-tăng - vì sa-tăng đã dám công khai khiêu chiến với Thượng đế, tách đôi vũ trụ ra làm hai - còn chúng thì ở ẩn, giấu mặt ở bên sau Thượng đế, sống trong ân sủng của ngài rồi phản bội ngài, sự phản bội còn đê hạ hơn Giu-đa đối với Christ, hơn Devadatta đối với Gotama. Minh triết là sống đời xa hoa, lòe loẹt, thắt đai tía, đai hồng, áo mão sặc sỡ, vợ con thê thiếp, là kẻ cầm muỗng ở các chiếu tiệc tùng, là võng lọng, ngựa xe, là cừu dê, là tôi tớ. Minh triết của chúng là vậy. Còn ngôn ngữ chữ nghĩa kia, chỉ là lớp trí thức cặn bã, thời thượng, rơm rác, uế trược, đã bị quẳng ra bãi hoang, xông lên mùi xác chết đã mấy ngàn năm chôn lấp lại… Mỗi danh từ, ngữ ngôn của chúng sử dụng là mỗi con rắn độc hai đầu đối với cuộc đời. Chúng lý luận với đức thầy là như nhổ nước miếng giữa hư không, như tung bụi trước đầu gió ngược...

Triết Hựu say sưa nói, quay lưng với đám thanh niên và thái độ thật là vô cùng lễ độ đối với vị sa-môn già lúc ấy đang trong tư thế kiết già thanh tịnh. Đám thanh niên đã đổ xô lại, vung tay múa chân, mắt trợn ngược, chân mày xếch lên, răng nghiến lại - nhưng quả bọn chúng không phải là kẻ vũ phu!

Một người thanh niên chững chạc, bệ vệ, có lẽ là huynh trưởng trong bọn, trang nghiêm cúi đầu chào Triết Hựu:

- Tôn huynh đã mạt sát chúng tôi quá thậm tệ.

Những lỗi lầm của huynh đệ chúng tôi chưa đến nỗi phải nhận chịu quá nhiều bóng tối, sự nguyền rủa đến như vậy. Quốc độ này, truyền thống minh triết không có chỗ cho những kẻ tiểu nhân ác khẩu, nhưng cho phép các cuộc tranh luận hiên ngang và thẳng thắn giữa nhau. Tôn huynh có thể dạy cho chúng tôi những lời có tính cách đứng đắn hơn, có văn hóa hơn, quân tử hơn, cao thượng hơn, được chăng?

Triết Hựu thẹn mặt liếc nhìn người thanh niên. Phải rồi. Trong bóng tối, có ánh sáng. Thần Vichnou cũng có mặt ở đây, trong việc bảo tồn tạo hóa.

Triết Hựu quay qua vị sa-môn đầu đà chờ đợi.

Bây giờ, vị sa-môn mới bắt đầu mở mắt, im lặng nhìn quanh một lượt, chậm rãi khoác bình bát lên vai, cầm chiếc gậy trong tay, đứng dậy:

- Xin ăn bần tăng đã có bát gia truyền của đức Phật. Bước đi, bần tăng đã có đôi chân già nua trần tục. Hiểu biết, bần tăng đã có trí-vô-tri vay mượn của càn khôn. Chư hiền! Bần tăng không thấy thiếu thốn gì trên trần gian. Người tuổi trẻ, bần tăng không thấy cần thêm gì trên trần gian. Bần tăng là cụ túc tỷ-kheo. Cụ túc tỷ-kheo là tên gọi của bần tăng. Kính chào và tạ ơn tất cả các người tuổi trẻ!

Nói xong, vị sa-môn hướng theo con đường lớn, bước đi.

Đám đông lại được dịp nhạo báng Triết Hựu.

- Truyện kể rằng: trong vườn chơi của Thượng đế có một loài bò bụng to được sủng ái. Cóc kia thấy vậy, về hạ giới tu hành, hít hơi phình bụng hy vọng thành bò. Ngàn năm sau y đến chầu Thượng đế và xin được vào ở trong vườn chơi của ngài. Thượng đế ngạc nhiên hỏi:

- Ngươi là cóc mà!

- Muốn thành bò có khó gì, chỉ cần hít hơi, phình bụng thôi. Ngài hãy xem.

Thế rồi cóc phình bụng lên. Thượng đế cười rồi phán:

- Bụng ngươi to thì to thiệt đấy. Nhưng ngươi có phình bụng đi nữa cũng chỉ là “loài cóc bụng to thôi”, chẳng phải là bò!

Thế rồi cóc bị đuổi xuống trần gian!

Lại có tiếng cười phụ họa:

- Đấy là quyển thượng, trang 7, dòng 15, tiết 1 - quyển hạ còn chép tiếp rằng: Sau đó, cóc thất vọng, qua xin làm tôi tớ bộ hạ sa-tăng. Sa-tăng bảo:

- Ngươi tưởng làm tôi tớ của ta dễ lắm sao? Muốn làm tôi tớ ta thì không được hít hơi, phình bụng, rống to mà phải ngậm miệng, cắn răng lại.

Cóc nghe lời, một ngàn năm tinh tấn hành theo hạnh ngậm miệng, cắn răng.

Gặp sa-tăng, sa-tăng bảo:

- Ngậm miệng, cắn răng thì được rồi, nhưng trong hàng tôi tớ nhà ta chẳng có đứa nào là cóc cả. Ta không nhận.

Một thanh niên khác chợt “chậc, chậc” lưỡi rồi gật đầu đầy vẻ hiểu biết:

- Hèn gì, vĩnh kiếp nay cóc chỉ còn biết ngậm miệng cắn răng thôi! Phình bụng to cũng bị đuổi, xẹp bụng lại cũng bị đuổi. Ôi! Cóc ôi! Khổ thay!

Triết Hựu nghe râm ran và lùng bùng trong lỗ tai. Chúng nó cũng độc địa, thâm trầm, sâu sắc lắm chứ không vừa đâu. Chàng đã bị hạ phong rồi, khi xuất chiêu đầu tiên. Mũi tên đã lìa khỏi cung rồi, chẳng thể nắm lại. Phải nắm lại. Phải nắm lại mới là bàn tay đại xạ thủ. Làm một con cóc cắn răng ngậm miệng cũng được chứ không sao. Và chàng lại nghe bên trong tiếng cừu non nói dịu dàng: “Hãy nín, hãy nín.”

Khi chàng từ giã đám đông, thất thểu ra đi, thì hai môi đã bị hàm răng cắn chặt đến rướm máu. Chàng biết là chàng vừa chiến thắng trong thất bại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567