Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 7: Phép quán thấy sâu xa bằng phương pháp tự nhiên

11/03/201215:18(Xem: 6094)
Chương 7: Phép quán thấy sâu xa bằng phương pháp tự nhiên
BUDDHADASA
QUYỂN SÁCH CHO NHÂN LOẠI

Tóm lược Đạo Pháp của Đức Phật
Hoang Phongchuyển ngữ
Nhà Xuất Bản Phương Đông 2012

Chương VII
PHÉP QUÁN THẤY SÂU XA BẰNG PHƯƠNG PHÁP TỰ NHIÊN


Nhữngđiều trình bày trong chương này sẽ cho chúng ta thấy rằng sự tập trung cũng cóthể phát hiện một cách tự nhiên, không cần phải tham dự một khóa tu học nào cả.Kết quả mang lại từ hai cáchluyện tập đều giống nhau: tâm thức sẽ đạt được sự tập trung và trở nên đầy đủkhả năng để thực hiện một sự nội quán vô cùng tinh tế. Tuy nhiên cũng cần nhấnmạnh là sự tập trung phát động tự nhiên thường cũng đủ mạnh để giúp thực hiện phépnội quán và sự quán thấy sâu xa, trong khi đó sự tập trung do việc tập luyệnchuyên biệt (qua các khóa tu học)thường quá dư thừa và vượt xa hơn sự cần thiết, đấy làchưa nói đến trường hợp có thể đưa đến một sự tự mãn tai hại. Thật vậy, một tâmthức tập trung thật sâu xa có thể làm phát sinh một thể dạng an vui khiến chongười hành thiền bám vào đấy hoặc tưởng lầm là mình đã đạt được quả của Con Đường.Trái lại, sự tập trung tự nhiên và trọn vẹn cũng đủ để thực hiện thực hiện phépnội quán, và sẽ không mang lại sự nguy hại nào và cũng không cho thấy sự bất lợinào như trên đây.

TrongTam Tạng Kinh có thuật lại vào thời kỳ Đức Đức Phật đã xảy ra nhiều trường hợp chothấy thật nhiều người đột nhiên đạt được tất cả các giai đoạn và quả trên ConĐường. Kể cả vào các thời kỳ sau đó và nhờ vào các vị thầy khác mà nhiều ngườicũng đã đạt được giác ngộ. Tuy nhiên họ nào có phải vào rừng để luyện tập gaygo hoặc phải dựa vào một số đối tuợng đặc biệt nào đó để luyện tập như thườngđược mô tả trong các sách chỉ dẫn sau này.

Thậtlà một bằng chứng hiển nhiên, năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật nào có cần đếnsự quyết tâm lớn lao đâu, thế mà họ đã đạt được thể dạng A-la-hán sau khi nghegiảng về vô ngã (bài thuyết giảng thứ hai của Đức Phật chonăm đệ tử sau bài Tứ Diệu Đế),cũng như hàng ngàn nhà tu ẩn dật khác sau khi được nghe giảng về "bài thuyết giáo về sự bốc cháy"(có lẽ đạ sư Buddhadasa muốn nói đến bản kinhAdittapariyaya-sutta, Samyutta Nikaya, IV,19-20, tức là bản kinh "tất cả đềubốc cháy" còn gọi là "bản kinh về trận hỏa hoạn", nói lên sự hiệnhữu chỉ là một ngọn lửa đang bốc cháy, thân xác đang bốc cháy, giác cảm đang bốccháy, tri thức đang bốc cháy... Dập tắt được sự thèm muốn, hận thù và ảo giáclà sự Giải Thoát).Trí tuệ sắc bén và sâu xa tự nó sẽ phát hiện khi một cá thể cố gắng tìm hiểu ýnghĩa sâu xa về một vấn đề nào đó, và nếu được tiếp tục duy trì vững chắc thêm thìnhất định nó sẽ trở nên rất mạnh và vững bền. Trí tuệ đó hiển hiện ra một cáchtự nhiên và tự động, tương tự như khi tâm thức tập trung sự chú tâm để làm mộtcon toán, hoặc tương tự như nhắm vào tâm điểm một tấm bia và dùng một cái cungđể bắn một mũi tên vào đấy. Trong lúc bình thường ta không chú ý đến loại tậptrung đó, bởi vì nó không mang lại bất cứ một thứ gì mầu nhiệm, thần kỳ hay kinhngạc cả. Thế nhưng thực ra thì phần đông chúng ta đều có thể chỉ cần nhờ vào sứcmạnh tập trung tự nhiên đó cũng đủ để đạt được sự giải thoát, tức quả của ConĐường, tức là Niết-bàn hay thể dạng của người A-la-hán (đây là một sự nhận xét vô cùng thiết thực và ích lợi,một sự "mách bảo" vô giá, bởi vì người tu tập thường phóng tâm rangoài để tìm kiếm trí tuệ, sự giác ngộ, một sự trợ lực, hoặc thiền định để pháthuy khả năng hiểu biết..., trong khi đó thì khả năng chú tâm cần thiết đã có sẵntrong mỗi người giúp mình phát huy trí tuệ cho chính mình... chỉ cần hướng nó vàosự quán thấy bản chất của các sự vật là đủ. Tóm lại tu tập không phải là một thứgì "quá khó", và nhất là không cần nhờ đến những thứ hình thức phức tạpvà cầu kỳ).

Vậykhông nên xem thường cách thức tập trung mà tất cả chúng ta đều sẵn có, hoặc íthoặc nhiều mà thôi, và lúc nào cũng có thể phát triển được nó. Chúng ta phảilàm hết sức mình để trau dồi nó, giúp cho nó vận hành một cách hoàn hảo, và sauđó sẽ gặt hái các kết quả thích nghi, tương tự như những người trước đây đã trởthành A-la-hán mà không cần biết gì cả về những thứ kỹ thuật tập trung tân tiếnnhư được thuyết giảng ngày nay.

Đến đâychúng ta thử tìm hiểu bản chất các thể dạng tri thức giúp mang lại sự quán thấysâu xa về "thế giới", tức là năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn)xem sao. Giai đoạn thứ nhất gọi là sự hân hoan (pîti), đấy làniềm hạnh phúc trong tâm thức hay sự an vui tinh thần. Hãy thực thi điều tốt, bằngcách này hay cách khác, thí dụ như hiến dâng thực phẩm cho các nhà sư - đấy làmột trong những cách đơn giản nhất nhằm mang lại sự xứng đáng - cử chỉ ấy có thểcũng đủ để tạo ra một một nguồn hân hoan. Vào các cấp bậc đạo đức cao hơn sẽ làcách hành xử không để ai chê trách được mình, đấy là cách sử dụng ngôn từ hay hànhđộng nhằm mang lại một niềm hân hoan sâu rộng hơn. Sau đó thì thực thi sự tậptrung, và ngay trong các cấp bậc thấp nhất ta cũng sẽ tìm thấy được sự vui thích.

Niềmhân hoan đó tự nó đã hàm chứa khả năng làm hiển hiện ra thể dạng bình lặng. Thói thường tâm thức luôn bấtđịnh (không tập trung được), và bị nô lệ cho các tư duy và xúc cảm kết hợp với nhữngvật thể bên ngoài mang tính cách quyến rũ, do đó nó luôn bị dao động và khônggiữ được sự yên lặng. Thế nhưng khi phát huy được niềm hân hoan tinh thần thìnhất định sự tĩnh lặng và thăng bằng tâm thức cũng sẽ phát sinh một cách tươngxứng; và khi giữ được sự thăng bằng vững vàng hơn, thì sự tập trung hoàn hảo sẽhiện ra. Tâm thức trở nên bình lặng, mềm dẻo, linh hoạt, nhẹ nhàng, thư giãn, sẵnsàng thực hiện bất cứ mục tiêu nào, nhất là sử dụng nó để xóa bỏ mọi thứ ô nhiễmlàm cho nó bị u mê.

Đấy khôngphải là cách tạo ra một tâm thức yên lặng và thân thể thì cứng đơ như một khối đá- tuyệt nhiên không đúng như thế. Thân thể phải cảm thấy tự nhiên và tâm thức thìphải thật bình lặng, hoàn toàn trong sáng, tươi mát và linh hoạt, nói cách kháclà sẵn sàng bắt tay vào việc, và chuẩn bị để học hỏi. Đấy là mức độ tập trung cầnphải thực hiện, không phải là một sự tập trung quá sâu có thể khiến cho người hànhthiền trở thành tương tự như một pho tượng đá, mất hết ý thức về hiện tại. Loạitập trung như thế không giúp tìm hiểu được điều gì cả, tập trung tâm thức quá sâukhông giúp thực hiện được phép nội quán. Nếu không giữ được thể dạng tỉnh giác (tức tâm thức minh mẫn)thì sẽ không thể nào thực hiện được sự quán thấy sâuxa. Sự tập trung quá sâu là một thứ trởngại chính yếu nhất cho việc luyện tập sự quán thấy sâu xa(có thể liên tưởng đến phép thiền định phân giải do ĐứcĐạt-Lai Lạt-Ma chủ trương, nên hiểu phân giải là phân tích các hiện tượng đểquán thấy bản chất sâu xa của chúng, phép thiền định đó đòi hỏi một tâm thứctrong tình trạng linh hoạt và sáng suốt). Để có thể thực hiện phép nội quán, phải thụt lùi lạithể dạng kém tập trung hơn, khi đó mới có thể sử dụng được sức mạnh mà tâm thứcthu đạt được trước đó trong lúc lắng sâu. Đấy là cách mà sự tập trung thật sâucó thể trở thành một phương tiện hữu ích, dầu sao thì đấy cũng chỉ là một phươngtiên mà thôi. Đối với phép luyện tập để phát huy sự quán thấy sâu xa bằng phươngpháp tự nhiên thì không cần phải đạt được một sự tập trung thật sâu và ngồi imnhư một pho tượng mà đúng hơn chỉ cần phát huy một tâm thức yên lặng và thăng bằng,sẵn sàng bắt tay vào việc. Khi sử dụng nó để luyện tập sự quán thấy sâu xa thìnó sẽ giúp đạt được một sự hiểu biết đúng về tất cả mọi hiện tượng trong thế giannày. Một sự quán thấy như thế hoàn toàn tự nhiên, tương tự như sự quán thấy củacác đệ tử của Đức Phật khi họ được nghe thuyết giảng về Đạo Pháp (Dhamma). Sự quán thấy đó nào có cần đếnnghi lễ và phép lạ thế nhưng đã giúp họ phát huy được những tư duy đúng và phépnội quán đúng.

Tuynhiên điều đó cũng không có nghĩa là trí tuệ sẽ phát sinh một cách tự động. Không thể đầu hôm sớm mai mà có thể trở thànhmột vị A-la-hán được. Các bước đầu của sự hiểu biết có thể xảy ra bất thần thếnhưng tất cả còn tùy thuộc vào sức tập trung của mình. Cũng có trường hợp nhữnggì hiển hiện ra không phải là trí tuệ đích thật, và đấy chỉ là kết quả mang lạitừ một sự luyện tập sai lầm hoặc vì căn bản hiểu biết của mình không được đúng.Tuy nhiên và dầu sao đi nữa thì sự quán thấy ấy không phát hiện và mang lại đượcmột thứ gì khả dĩ có thể gọi là đặc biệt, minh bạch và sâu xa. Nếu sự hiểu biếtdo sự quán thấy phát hiện đúng với hiện thực, tức đúng với Đạo Pháp (Dhamma), thì nó sẽ tiếp tục thăng tiếnvà phát huy để trở thành một sự hiểu biết đúng đắn và đích thật về tất cả mọihiện tượng. Nếu trí tuệ chỉ phát triển đến một mức độ giới hạn nào đó, thì nóchỉ có thể giúp trở thành một vị A-la-hán thuộc cấp bậc đầu tiên hay ít ra thìcũng trở thành một người mang các phẩm tính cao. Nếu cơ duyên thuận lợi và cácphẩm tính tốt được phát huy toàn vẹn và vững chắc thì lúc đó mới có thể đạt đượccấp bậc A-la-hán. Tất cả đều tùy thuộc vào cơ duyên. Thế nhưng dầu sao đi nữa thìdù đã từng luyện tập lâu dài hoặc chỉ mới khởi sự gần đây thì chỉ khi nào tâmthức đạt được khả năng tập trung tự nhiên thì khi đó nhân tố gọi là "sự quánthấy sâu xa" mới có thể hiển hiện được, và nhất là nó phải phù hợp ít haynhiều với hiện thực. Đối với người Phật tử khi đã được nghe giảng về "thếgiới" tức là ngũ uẩn và mọi hiện tượng, thì tất nhiên sẽ phải suy nghĩ đếnnó, nghiền ngẫm về nó để mong tìm hiểu được bản chất đích thật của nó, đấy chínhlà sự hiểu biết phát sinh từ thể dạng tập trung an bình, và dù sao thì cũng khôngmang tính cách lừa phỉnh. Sự hiểu biết ấy chỉ có thể mang lại sự lợi ích mà thôi.

Thànhngữ "sự quán thấy xuyên thấu về bản chất đích thật của mọi sự vật" mangý nghĩa là đã nhìn thấy được tính cách vô thường, sự bất toại nguyện và vô-ngãcủa tất cả mọi sự vật, và đã quán nhận được là chẳng có gì đáng cho ta có nóhay được trở thành như thế, tóm lại là hiểu được rằng ta phải tuyệt đối không nênbám víu vào bất cứ thứ gì trong thế gian này, không có bất cứ gì là cái ngã hayhàm chứa một cái ngã tự tại, không có bất cứ gì tốt hay xấu, quyến rũ hay ghétbỏ. Sự kiện đơn giản là yêu quý hay không yêu quý một vật thể dù đấy chỉ là mộtý nghĩ hay một kỷ niệm thì cũng đã là một sự bám víu. Cách phát biểu không có gìđáng để "có" hay để "trở thành" mang cùng một ý nghĩa vớicách phát biểu "không có gì đáng để cho ta bám víu". Thí dụ như chữ "Chiếmhữu" (Obtenir / Getting)có nghĩa là ước mong thật mạnh có một tài sản hay địavị nào đó, có thể đấy là tiền bạc hay bất cứ thứ gì mang lại sự thích thú. "Trởthành" (Être / Being)có nghĩa là ý thức được tư thế của mình: chẳng hạnnhư một người đã lập gia đình, hoặc chưa có gia đình, giàu, nghèo, được, thua,kể cả sự kiện ý thức được mình là một con người, hay ý thức được chính là mình.Nếu tìm hiểu thật kỹ thì ngay việc trở thành một người nào đó cũng không phảilà hay ho gì cho lắm, quả thật đấy chỉ toàn là chán ngán vì chỉ toàn mang lạikhổ đau. Khi nào hoàn toàn không còn bám víu vào ý nghĩ ta là "một ngườinào đó" thì khi ấy sự kiện là "một người nào đó" sẽ không còn làmột sự khổ đau nữa. Đấy có nghĩa là ta đã nhìn thấy được tính cách vô nghĩa (vô tích sự)của sự "trở thành" (être / being)một thứ gì đó. Đấy là ý nghĩa sâu xa trong câu xác địnhtất cả đều không sao tránh khỏi mang lại khổ đau tương quan với từng thể dạng cábiệt của mọi sự vật. Muốn được tồn tại mãi mãi, thì tất nhiên tất cả mọi thứ cũngphải theo đó mà kéo dài vĩnh viễn, ít nhất thì chuyện đó cũng phải xảy ra trongđầu của ta, dưới hình thức của một sự tin tưởng về sự hiện hữu vĩnh cữu củachính mình. Tiếp theo đó, khi có một "con người" thì cũng sẽ có các vậtthể khác hơn với cái "con người" ấy và thuộc sở hữu của "con người"ấy: thí dụ như con cái, người phối ngẫu, vật này hay vật nọ thuộc tài sản củangười ấy... Sau đó thì mỗi người phải gánh vác bổn phận của mình dù đấy là chồng,vợ, chủ nhân hay người làm công, v.v... Tất cả những thứ ấy cho thấy một sự kiệnthật hiển nhiên là nếu muốn duy trì bất cứ một thể dạng nào thì cũng phải cần đếnmột sự tranh đấu nào đó. Các khó khăn và khổ nhọc phát sinh từ việc duy trì tưthế của mình đều là hậu quả phát sinh từ sự yêu quý mù quáng các vật thể và bámchặt vào chúng.

Thếnhưng ví như chúng ta loại bỏ sự thèm muốn được có một cái gì đó và trở thành mộtthứ gì đó, thì rồi chúng ta sẽ phải hiện hữu như thế nào đây? Nhất định đấy sẽlà một thắc mắc làm cho những người có tính hoài nghi và cả những người không hềbiết suy nghĩ một cách chín chắn sẽ phải nhếch môi cười (vì hoài nghi). Ý nghĩa của các chữ "chiếm hữu" (getting)và "trở thành" (being)đúng như đã được dùng trên đây có nghĩa là những gì "chiếmhữu" và "trở thành" xuyên qua những thứ ô nhiễm của tâm thức, củasự thèm muốn, với ý nghĩ là "đáng để có chúng" và được "trở thànhnhư thế", và tâm trí sẽ bám chặt vào đấy. Thái độ đó chỉ mang lại sự trầmcảm, lo âu, khủng hoảng tinh thần, mọi thứ dao động, hay ít ra cũng là một sựlo lắng triền miên. Khi đã hiểu được điều đó, ta sẽ biết chú tâm hơn để canh chừngtâm thức mình không để cho nó trở thành con mồi của sự ham muốn muốn chiếm hữuhay được trở thành. Khi đã ý thức được là thực sự ra chẳng có một thứ gì đáng đểcó hay để trở thành, thì khi đó ta sẽ có đủ trí thông minh để hiểu là phải lánhxa chúng.

Thếnhưng, trong trường hợp mà ta không sao tránh khỏi được những vật thể của thếgian này, thì khi đó ta phải cực kỳ cảnh giác, nếu thật sự phải có một cái gì đó,thì cứ có nó thế nhưng với một sự buông xả (không bámvíu)hoàn toàn. Khôngnên xử sự như những người tự bịt mắt bịt tai, không suy nghĩ gì cả mà chỉ biếtlao đầu vào sự ham muốn "chiếm hữu" và được "trở thành" để chờcho đến lúc rơi vào đáy giếng của vô minh và bám víu, và biết đâu có thể đưa đếntình trạng phải tự tử.

Thếgiới – và tất cả những gì hàm chứa trong đó – đều là vô thường, không giá trị gìcả và cũng không thuộc vào của ai cả (vô ngã). Bất cứ một ai muốn chiếm giữ và bám vào một cái gìđó tất sẽ phải khổ đau một cách dai dẳng: khổ đau ngay từ lúc mới khởi sự hammuốn được trở thành hay được có nó, trong khi tìm cách thực hiện mục đích đó,và cả sau đó khi đã tìm được sự toại nguyện có được nó hay trở thành như thế.Trong từng giai đoạn: trước, trong khi và sau đó, nếu chỉ biết lao đầu vào sự thèmmuốn và bám víu như một người vừa điếc vừa mù, thì sẽ không sao tránh khỏi đượckhổ đau. Chỉ cần nhìn chung quanh cũng đủ trông thấy mọi người chỉ vì vô minh màphải gánh chịu khổ đau như thế nào. Cái tốt cũng sẽ mang lại khổ đau, dù đấy lànhững gì mà người ta vẫn thường xem trọng. Nếu thực hiện những hành động tốt mộtcách sai lầm và khăng khăng cứ cố bám víu vào đấy thì ta cũng sẽ phải khổ đau,chẳng kém gì như khi phạm vào những điều xấu. Nếu dấn thân vào con đường tốtthì cũng đừng quên là nó cũng sẽ mang các đặc tính cùng loại như thế (tức có nghĩa là bám víu vào cái tốt hay là cái xấuthì cũng đều là bám víu như nhau).

Mộtngười có tính hoài nghi có thể phản kháng lại rằng: "Nếu đúng là chẳng có mộtthứ gì trên địa cầu này đáng để "có" hay để "trở thành", thìnỗ lực làm việc, đạt được một vị thế xã hội và sự giàu sang để làm gì?" Thếnhưng bất cứ ai cũng có thể hiểu được là nếu một người bước vào cuộc sống này vớimột hành trang hiểu biết và nhận thức đúng sẽ đạt được nhiều lợi thế hơn để thựchiện mục đích của đời mình, hơn hẳn những người phải nô lệ cho sự thèm muốn, umê và thiếu hiểu biết về bản chất của mọi sự vật. Một cách vắn tắt, khi phải dấnthân vào cuộc sống này, thì cũng phải chú tâm và canh chừng hành động của mình khôngđể bị chi phối bởi sự thèm muốn. Kết quả mang lại sẽ tương xứng với cách hành xửcủa mình.

ĐứcPhật và tất cả các vị A-la-hán khác đã hoàn toàn được giải thoát khỏi sự thèm muốnthế nhưng họ vẫn có thể thực hiện được những điều ích lợi hơn nhiều so với khảnăng thực hiện của bất cứ ai trong chúng ta. Kinh sách thuật lại cuộc đời của ĐứcPhật cho biết mỗi ngày Ngài chỉ ngủ có bốn tiếng và thì giờ còn lại là để làmviệc. Chúng ta thì lại mỗi ngày dành ra hơn bốn tiếng vào việc giải trí! Đức Phậtvà tất cả các vị A-la-hán đã loại bỏ được mọi thứ ô nhiễm và sự ham muốn muốnđược có và được trở thành, vậy thì các vị ấy đã dựa vào sức mạnh nào để thực hiệnđược các công việc đó? Đấy là nhờ vào sức mạnh của sự nhận định sáng suốtlòngtừ bi. Kể cả những hành động do nhu cầu tự nhiên của thân thể đòi hỏi, chẳnghạn như tiếp nhận và hấp thụ thực phẩm, cũng đều được hướng dẫn bởi sự nhận địnhsáng suốt. Họ đã hoàn toàn được giải thoát khỏi mọi thứ ô nhiễm, không còn vướngmắc vào sự thèm muốn muốn được sống để trở thành như thế này hay để có cái kia,thế nhưng họ có đủ sức mạnh để nhận định một cách minh bạch những gì nên vàkhông nên làm, sức mạnh đó đã vận động họ sử dụng thân xác mình để tìm lấy thứcăn. Nếu họ tìm được thức ăn thì càng tốt, nếu không thì cũng chẳng sao. Khi họlên cơn sốt, họ biết phải chăm sóc ra sao và cố gắng làm hết sức mình, thếnhưng nếu cơn sốt quá trầm trọng và thân xác thì lại quá mong manh, thì họ sẽnhớ lại ngay là cái chết là một hiện tượng tự nhiên. Sự sống cũng như cái chết khônghàm chứa một ý nghĩa nào cả đối với họ, dưới mắt họ cả hai thứ ấy có cùng mộtgiá trị như nhau.

Trênđây là thái độ hành xử tốt nhất để giải thoát cho mình khỏi mọi khổ đau. Quả thậthoàn toàn không cần thiết phải có một "cái tôi" đứng ra làm chủ cho thânxác mình. Chỉ cần đến sự nhận định sáng suốt cũng đủ để duy trì thân xác tức nhờvào sức mạnh tự nhiên của chính nó (biết phân biệt những gì đúng và sai, nhữnggì nên làm và không nên làm nhờ vào sức mạnh của sự hiểu biết tự nhiên cũng đủđể giúp mình đứng vững trên đôi chân mình trong thế gian này, không cần đến một"cái ngã" hay cái "linh hồn" nào cả để đứng ra chỉ huy mình.Những thứ ấy có thể xúi dục mình phạm vào những hành động sai lầm, cực đoan vàvô minh, mang lại mọi thứ khổ đau, kể cả tù tội hay tự tử). Chẳng phải tấm gương của Đức Phật cho thấy sức mạnhcủa sự nhận định minh bạch và lòng tốt tinh khiết cũng đủ để duy trì sự sốngcho một vị A-la-hán trong thế giới này hay sao, và hơn nữa còn giúp cho vị ấyhoàn tất được thật nhiều nghĩa cử vì lợi ích của người khác, hơn hẳn những ngườicòn bị chi phối bởi sự bám víu. Những người bị chi phối bởi vô minh tất nhiên chỉbiết hành động vì lợi ích của mình, đấy chẳng qua vì họ bị thúc đẩy bởi sự íchkỷ, trong khi đó thì hành động của một vị A-la-hán tuyệt nhiên không mang bóngdáng nào của sự ích kỷ và vì thế nên hành động của họ hoàn toàn tinh khiết. Hammuốn được có cái này hay được trở thành như thế kia sẽ khiến ta hành động thiếuthích nghi, lầm lẫn cái sai với cái đúng và không hiểu được mọi vật thể là"như thế" (bản chất của hiện thực). Vậy hãy sử dụng trí thông minh của mình để xử lý mọisự vật! Và nhất là không bao giờ được quên là chẳng có gì đáng để có nó hay trởthành như thế, chẳng có gì đáng để mà bám víu vào chúng. Hãy hành xử một cách mạchlạc: tức phải hiểu rằng mọi vật thể từ bản chất chúng không có một giá trị gì cả.Nếu như phải dấn thân vào thế gian này, thì cứ dấn thân một cách đúng đắn và thíchnghi, đấy là cách giúp cho tâm thức giữ được sự tinh khiết, trong sáng, an bìnhvà thanh thoát. Nhờ thế mà chúng ta có thể tham gia vào mọi sinh hoạt trong thếgian này mà không sợ phải gánh chịu khổ đau.

Mộtngười bình thường khi nghe nói là chẳng có gì đáng để chiếm hữu hay để được nhưthế cả, thì tất nhiên sẽ không tin và sẽ phản kháng lại ngay. Thế nhưng đối vớimột người đủ sức hiểu được ý nghĩa đích thật của những lời nói ấy thì sẽ cảm thấymình vui sướng và vững tin hơn. Tâm thức của người ấy sẽ chủ động được mọi vậtthể và không còn lệ thuộc vào chúng nữa. Người ấy sẽ có đủ khả năng thực hiện cácmục tiêu của mình và hiểu rằng mình sẽ không trở thành nô lệ cho chúng. Người ấyhành động nhưng không hề bị thúc đẩy bởi sự thèm muốn và không để cho mình bịmù quáng để trở thành nô lệ cho các vật thể. Nếu phải chiếm hữu hay phải trởthành một thứ gì đó thì cũng phải luôn ý thức rằng trong lãnh vực của sự thậttuyệt đối, ta không thể có được hay trở thành một thứ gì cả, bởi vì không có bấtcứ gì để ta có hay trở thành đúng với sở nguyện của mình. Tất cả đều là vô thườngvà bất toại nguyện, và không có bất cứ thứ gì có thể gọi là thuộc về mình cả (tất cả đều vô-ngã), thế nhưng ta lại cứ nhắm mắt dấn thân vào cuộc sốngnày như một người ngu xuẩn mang đầy thèm muốn và bám víu. Nói cách khác sở dĩ hànhđộng của ta không thích nghi và đi ngược lại với bản chất đích thật của mọi sựvật, chỉ vì đơn giản là ta tiếp cận với chúng mà không hề ý thức được bản chất củachúng là gì. Tất nhiên tình trạng đó sẽ mang lại mọi thứ khó khăn và khổ đaucho ta. Ta không thể nào hoàn tất công việc của mình một cách hoàn hảo được, bởivì ta luôn phải bận tâm với sự ham muốn có cái này hay được trở thành như thế nọ.Vì thế ta không thể chủ động được gì cả và cũng không thể nào trở thành một ngườitốt, lương thiện và đúng đắn được. Nguyên nhân mang lại mọi sự thất bại và thảmhọa chính là tình trạng nô lệ cho sự thèm muốn.

Học hỏiđể tìm hiểu bản chất đích thật của mọi sự vật là mục tiêu chính yếu nhất của ngườiPhật tử, đấy là phương tiện giúp chúng ta tìm thấy sự giải thoát. Tất cả nhữnggì mà ta mong cầu dù đấy là các thứ lợi nhuận trong thế gian này (của cải, địavị xã hội, danh vọng) hay những gì cao xa hơn (cõi thiên), kể cả những lợi íchsiêu-thế-tục (quả của Con Đường tức là Niết- bàn), thì phương tiện duy nhất cóthể giúp chúng ta đạt được những thứ ấy là sự hiểu biết đúng và sự quán thấy sâuxa. Sự quán thấy sâu xa sẽ giúp chúng ta trở nên phong phú hơn. Kinh sách chobiết là chúng ta chỉ có thể tinh khiết hóa mình bằng sự quán thấy sâu xa và khôngcó phương cách nào khác hơn. Con đường đưa đến sự giác ngộ phải đi xuyên ngang sựquán thấy sâu xa, tức là sự nhận thức trong sáng giúp nhận thấy được không có gì,và sẽ không bao giờ có bất cứ thứ gì, có thể gọi là đáng để cho ta bám víu, hoặclà để có hay để trở thành như thế, bất chấp tất cả mọi thứ nguy cơ có thể xảy ralàm phương hại đến cả tánh mạng mình. Sự kiện có một cái gì đó hay trở thành mộtthứ gì đó chỉ có ý nghĩa trong lãnh vực của sự thực tương đối. Ta có thể dùngngôn từ của thế tục để bảo rằng ta là thế này hay thế nọ, thế nhưng đấy đơn giảnchỉ vì trong sự sinh hoạt xã hội người ta phải gán cho các vật thể một tên gọihay một tước vị nào đó nhằm mục đích thực dụng mà thôi (tức đấy là những quy ước hay "ký hiệu" dùngđể trao đổi với nhau nhằm mang lại một sự hiểu biết giống nhau, sự hiểu biết đómang tính cách hoàn toàn quy ước). Vì thế chúng ta không nên nghĩ rằng ta thật sự là như thế này hay nhưthế nọ, đấy chỉ có giá trị trên phương diện sự thật tương đối mà thôi. Nếu hànhđộng như thế thì cũng chẳng khác gì những con dế bị bụi bặm phủ lên đầu khiếnchúng mất hết định hướng và cắn giết nhau. Chúng ta là những con người, nếu đểcho bụi bặm phủ kín trong tâm trí khiến chúng ta trở thành những con mồi của mọikhái niệm sai lầm, thì chúng ta cũng có thể mất hết định hướng và có thể làm nhữngviệc mà bình thường không một con người nào dám làm - chẳng hạn như sát nhân. Vậythì chúng ta không nên nô lệ một cách mù quáng cho những thứ sự thật tương đối ấy,mà trái lại phải ý thức được chúng chỉ là những quy ước cần thiết cho sự sinhhoạt trong xã hội, không hơn không kém. Chúng ta phải luôn ý thức được thân xácvà tâm thức của mình thật sự là gì, bản chất đích thật của chúng là gì. Nhất làphải ý thức được bản chất vô thường, thể dạng bất toại nguyện của chúng và sự vắngmặt của một cái ngã mang tính cách cá thể nơi chúng (tánhkhông), để hiểu rằng khôngbao giờ nên dựa vào chúng để tự nhận diện mình.

Đối vớisự giàu có, địa vị xã hội và tất cả những thứ mà chúng ta phải cần đến trong cuộcsống, thì cứ xem chúng như những sự thật tương đối, đấy là cách giúp ta loại bỏđược cách mà người ta thường phát biểu: "Cái này thuộc của Ông X và cái nàythì thuộc của bà Y". Hệ thống luật phápcủa mỗi nước có bổn phận bảo vệ quyền sở hữu của người dân, do đó cũng không cầnphải bám chặt vào ý nghĩ "đấy là của tôi". Ta chỉ nên có những gì mangtính cách thực dụng không gây ra phiền toái, và không nên chiếm giữ những gì cóthể khống chế tâm thức mình (thiết nghĩ ngoài một số giá trị vật chất phảitránh thì cũng nên kể thêm những sự chiếm hữu nguy hại mang tính cách tinh thầnnhư: danh vọng, quyền lực, các chủ thuyết, giáo điều, tín ngưỡng, quan điểm,...mà Phật Giáo gọi chung là tà kiến). Nếu hiểu được điều đó, thì các vật thể sẽ trở thành những kẻ phục vụcho ta và ta cũng sẽ kiềm chế được chúng trong bất cứ bối cảnh nào. Trái lại, nếutư duy của ta có xu hướng chuyển thành sự thèm muốn và bám víu, và nếu chúng tatin rằng có thể chiếm giữ được cái này hay cái kia, có thể trở thành như thếnày hay thế nọ, và rồi ta bám chặt vào chúng, thì các vật thể sẽ chế ngự ta vàchính ta sẽ trở thành nô lệ cho chúng. Vị thế (trong xã hội)cũng có thể bị xoay chuyển thật nhanh chóng, do đó phảithật cảnh giác. Ta phải tổ chức cuộc sống của mình như thế nào để không bị lệthuộc vào những thứ ấy và để có thể chủ động được chúng. Nếu không, ta sẽ gặpnguy cơ rất lớn là bị rơi vào những cảnh huống đáng tiếc để rồi sẽ phải thanthân trách phận.

Chỉkhi nào mà ta nhận thấy được một cách minh bạch là không có bất cứ thứ gì đángcho ta chiếm hữu hay để được như thế, thì lúc ấy sẽ hiển hiện ra với ta một sựgiải tỏa khỏi mê lầm (nibbidâ), sự giảitỏa đó sẽ phát triển tương xứng với mức độ quán thấy sâu xa của ta. Đấy là dấuhiệu cho thấy sự bám víu của ta bắt đầu được nới lỏng, và đồng thời cũng cho biếttừ lâu ta đã từng khổ tâm tìm cách thoát ra cảnh huống đó. Đấy là giai đoạn đầucủa tình trạng được giải tỏa khỏi sự mê lầm và sự vỡ mộng: tức là ta bắt đầuchán ngấy tình trạng ham muốn mù quáng các vật thể và cách bám chặt vào chúngnhư những gì hàm chứa một giá trị thật sự. Khi sự giải tỏa khỏi mê lầm khởi sựcó hiệu quả, thì đương nhiên cũng bắt đầu hình thành một quá trình tự nhiên vàtự động của sự buông xả (virâgakhông bám víu) – tương tự như chiếc dây thừng trước đây trói buộcta thật chặt được tháo gỡ, hay tương tự như màu nhuộm của một tấm vải bị phai mờkhi đem giặt. Đức Phật gọi quá trình ấy - tức quá trình mà sự bám víu được thaythế bởi sư tan biến hay một sự giải thoát khỏi thế giới tượng trưng bởi các vậtthể của sự bám víu – là sự "giải thoát" (vimutti). Dù chưa phải là thể dạng cuối cùng, thế nhưng thể dạng đóthật vô cùng quan trọng trên đường hướng đến sự giải thoát hoàn toàn. Chỉ khinào đạt được thể dạng hoàn toàn giải thoát thì mới thật sự loại bỏ được tất cả mọithứ khổ đau.

Khihoàn toàn tự do thì ta cũng sẽ không còn nô lệ vào thế giới nữa (tức là ngũ uẩn của ta và cả các hiện tượng khác trongthế gian này). Nô lệ chocác vật thể tức có nghĩa là thân xác, ngôn từ và tư duy của mình còn bị ô nhiễm.Tự giải thoát cho mình khỏi những thứ hương thơm của thế giới có nghĩa là đạtđược thể dạng của sự tinh khiết, và sẽ không còn bị ô uế trở lại nữa. Sự tinhkhiết tuyệt đối ấy (visuddhi) sau khiđã đạt được sẽ mang lại một sự tĩnh lặng, một sự thanh thản đích thực, loại bỏ đượctất cả mọi sự dao động, xung đột và buồn phiền. Đức Phật gọi sự đình chỉ (sự dừng lại)của mọi sự đè nén và dao động là "an bình"(santi), và đơn giản chỉ có thế, tứccó nghĩa đấy là sự tĩnh lặng, thanh thản trước tất cả mọi cảnh huống, một thể dạngcủa ảo giác rất gần với Niết-bàn (hình bóng của Niết-bàn, thế nhưng chưa phảilà Niết-bàn).

Chữ niết-bànđôi khi được dịch là "sự vắng mặt của mọi thứ đọa đày" hoặc "sựtắt nghỉ không còn lưu lại một vết tích nào". Do đó niết-bàn mang hai ý nghĩaquan trọng như sau: ý nghĩa thứ nhất là sự giải thoát khỏi mọi nguồn gốc của buồnkhổ và đớn đau của mọi hình thức bám víu và trói buộc; ý nghĩa thứ hai là sự dậptắt của tất cả khổ đau, không còn lưu lại một chút nhiên liệu nào khiến cho khổđau có thể bùng cháy. Nếu phối hợp cả hai ý nghĩa trên đây sẽ cho thấy Niết-bànlà một thể dạng hoàn toàn giải thoát khỏi mọi khổ đau. Ngoài ra chữ "Niết–bàn"còn mang nhiều ý nghĩa đáng quan tâm khác nữa, chẳng hạn như có nghĩa là "sựtắt nghỉ của khổ đau" hay "sự loại bỏ hoàn toàn các nọc độc tâm thần",hoặc đấy là thể dạng, lãnh vực hay tình huống gọi là "sự đình chỉ của mọikhổ đau, mọi ô nhiễm và mọi tác động của nghiệp". Thuật ngữ Niết-bàn mangý nghĩa thật đa dạng tùy theo các tông phái. Thí dụ đối với một số người thì Niết-bàncó nghĩa là "sự tĩnh lặng và thanh thản" bởi vì chỉ xem đấy như là mộtsự tập trung sâu xa; một số người khác đẩy xa hơn ý nghĩa của chữ "niếtbàn" và gọi đấy là một sự hội nhập hoàn toàn với tính dục! (có thể đây là cách ám chỉ một trong các phép tu tập củamột tông phái khác (?), dầu sao đi nữa thì đấy cũng chỉ là một phương tiện thiệnxảo - upaya, do đó không thể đồng hóa một phép tu tập với Niết-bàn được).

ĐứcPhật chỉ đơn giản định nghĩa Niết-bàn như một thể dạng giải thoát đối với sựbám víu, buồn phiền và khổ đau, một thể dạng phát sinh từ sự quán thấy bản chấtđích thật của mọi vật thể trong thế gian này, hầu có thể loại bỏ sự bám víu vàochúng. Vì thế thật hết sức quan trọng phải thực hiện được những lợi ích lớn laodo sự quán thấy sâu xa về bản chất của mọi sự vật mang lại và phải chuyên cầnphát động sự quán thấy đó bằng cách này hay cách khác. Đối với phép luyện tập tựnhiên thì cứ để cho sự quán thấy sâu xa tự động hiển hiện, ta chỉ cần ngày đêm pháthuy niềm hân hoan do sự tinh khiết hóa tâm thức mang lại (phép tu giới)và chờ cho đến khi nào các phẩm tính mô tả trên đây hiển hiện ra. Phươngpháp thứ hai là phát huy sức mạnh của tâm thức bằng cách luyện tập kỹ thuật tậptrung thật chính xác (tu định)và thực thi sự quán thấy sâu xa (tu tuệ). Các cách luyện tập này chỉ dành cho những người đã tạođược từ trước một số điều kiện thuận lợi giúp họ tiến bộ nhanh chóng trong nhữnghoàn cảnh thích nghi. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể luyện tập sự quán thấy sâuxa bằng phương pháp tự nhiên, đối với phương pháp này thì bất cứ lúc nào vàtrong bất cứ hoàn cảnh nào thì chỉ cần đơn giản sống một cuộc sống thường nhật thậttinh khiết và lương thiện và sau đó sẽ tuần tự hiển hiện ra: niềm hân hoan tinhthần (pîtipamoda, có nghĩa là hân hoan và vui sướng) sự yên lặng (passaddhi),sự quán thấy sâu xa về bản chất đích thật của mọi sự vật (yathânhûtanana-dassana), sư tỉnh ngộ (nibbidâ), sự buông xả (virâga - không bám víu), sự giải thoát (vimutti),sự tinh khiết hóa các thứ ô nhiễm tâm thần (visuddhi)và sự thanh thản (santi). Đấy là cáchgiúp ta tìm thấy được tiền vị của Niết-bàn (nibbana)(tức chưa hoàn toàn đúng là niết-bàn), tức chỉ là sự giải thoát mọi khổ đau một cách tuần tự,từ ngày này sang ngày khác, tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác, hầuđưa ta ngày càng gần hơn với cõi Niết-bàn cuối cùng (xin chú ýđây là một quan điểm khá đặc thù của đại sư Buddhadasa Bikkhu cho rằng Niết-bànlà một thể dạng tâm thức gồm có nhiều "cấp bậc" tùy thuộc vào sứcquán thấy sâu xa của từng người tu tập. Niết-bàn không phải là một "cõi"thuộc bối cảnh bên ngoài để người tu tập "nhập" vào đấy mà thật ra Niếtbàn sẽ hiển hiện ngay tức khắc với người tu tập khi bắt đầu thực hiện được sự tậptrung và quán thấy sâu xa, dù đấy chỉ là một cấp bậc thật thấp và sau đó sẽthăng tiến dần để đạt được sự Giải Thoát cuối cùng).

Tómlại, phép tập trung và quán thấy sâu xa tự nhiên sẽ có thể giúp đạt được "ConĐường và Quả" đấy là cách cố gắng suốt ngày và trong từng ngày một, nhằmxác định sự thật về sự khẳng định không có bất cứ thứ gì đáng cho ta chiếm hữuhay trở thành như thế. Bất cứ ai muốn đạt được kết quả đó thì cũng đều phải cốgắng tự tinh khiết lấy mình và phát huy các phẩm tính cá nhân thật gương mẫu trênđây, hầu thường xuyên mang lại cho mình một niềm hân hoan tinh thần trong khilàm việc cũng như trong lúc rảnh rỗi. Sự hân hoan đó mang lại sự trong sáng vàtươi mát, sự tĩnh lặng tâm thần, và nó cũng sẽ tự nhiên và tự động mang lại chotâm thức một khả năng suy nghĩ và nội quán nào đó. Tâm thức nhờ vào sự quán thấyminh bạch và thường xuyên là không có bất cứ gì đáng để chiếm hữu hay để trở thành,sẽ loại bỏ được sự ham muốn những vật thể mà trước đây đã tỏ ra thật quyến rũvà lôi cuốn nó. Tâm thức nhờ đó sẽ tự giải thoát cho nó khỏi những thứ gọi làcái "tôi" hay cái "của tôi" và nhờ đó sự thèm muốn các vậtthể một cách mù quáng sẽ chấm dứt. Sự đau khổ không còn tìm thấy một cơ sở nào chốngđỡ cho nó nữa, tất cũng sẽ phải tan biến theo, và mọi cố gắng nhằm loại trừ đaukhổ cũng theo đó mà chấm dứt. Đấy là phần thưởng mà mỗi người trong chúng ta đềucó thể đạt được.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567