Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

36. Thiền sư Huệ Cần Phật Giám ở Thái Bình

04/09/201102:42(Xem: 8990)
36. Thiền sư Huệ Cần Phật Giám ở Thái Bình

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 3
ĐỜI THỨMƯỜI LĂM SAU LỤC TỔ

36.THIỀN SƯ HUỆ CẦN PHẬT GIÁMỞThái Bình

Sư họ Uông xuất gia thuở nhỏ, học thông kinh điển, mỗikhi đọc đến câu "chỉ đây một sự thật còn hai thì chẳngchân", liền có tỉnh. Sư đi tham vấn các bậc tôn túc, qualại chỗ Thiền sư Pháp Diễn mấy phen. Sư bực Pháp Diễnkhông ấn chứng, nên kết bạn với Viên Ngộ cùng đi. Đến khi Viên Ngộ trở lại chỗ Pháp Diễn mới được triệtngộ. Bỗng Sư tìm đến, ý còn muốn đi nơi khác, Viên Ngộkhuyên nên ở lại. Viên Ngộ nói: - Tôi cùng huynh mới cáchnhau hơn tháng, so lại khi gặp nhau lúc trước thế nào?

Sư đáp: - Chỗ tôi nghi là ở đây.

Sư liền dừng lại đây.

*

Một hôm, Sư nghe Pháp Diễn nhắc việc Tăng hỏi Triệu Châu: "Thế nào là gia phong của Hòa thượng? Triệu Châu nói: - Lãotăng lãng tai hỏi to lên đi. Tăng lại hỏi to lên. Triệu Châunói: - Ông hỏi gia phong của ta, ta lại biết gia phong củaông rồi." Sư liền hoát nhiên đại ngộ thưa: - Xin Hòa thượngchỉ bày chỗ tột?

Pháp Diễn đáp: - Sum la và vạn tượng là sở ấn của mộtpháp.

Sư liền lễ bái. Pháp Diễn cử Sư làm thư ký.

*

Sư cùng Viên Ngộ luận đạo bàn việc Đông Tự hỏi NgưỡngSơn hạt minh châu trấn hải, đến chỗ không lý có thể bày.Viên Ngộ gạn lại Sư: - Đã nói nhận được, đến khi đòihạt châu, lại nói không lời có thể đáp không lý có thểbày là sao?

Sư không thể đáp được. Hôm sau, Sư nói với Viên Ngộ:- Đông Tự chỉ đòi một hạt châu, Ngưỡng Sơn ngay đó trútcả giỏ.

Viên Ngộ thừa nhận đó, lại khuyên Sư: - Lão huynh lại nênthân cận lão Hòa thượng.

Một hôm, Sư đến phương trượng chưa kịp nói gì, bị PhápDiễn mắng chửi thậm tệ rồi lui. Về liêu, Sư đóng cửanằm ngủ, hận Pháp Diễn vô cùng. Viên Ngộ đã thầm biếtđến gõ cửa.

Sư hỏi: - Ai?

Viên Ngộ đáp: - Tôi.

Sư liền mở cửa. Viên Ngộ hỏi: - Huynh đến lão Hòa thượngthế nào?

Sư đáp: - Tôi vốn không đi, bị huynh lừa nhiều lần, tôibị lão ấy mắng chửi.

Viên Ngộ cười hả! Hả! Nói: - Huynh nhớ được lời ngàytrước chăng?

Sư hỏi: - Là lời gì?

Viên Ngộ nói: - Huynh lại nói, Đông Tự chỉ đòi một hạtchâu, mà Ngưỡng Sơn trút cả giỏ.

Sư ngay đây liền tan vỡ. Viên Ngộ bèn hướng dẫn Sư đếnphương trượng. Pháp Diễn vừa thấy Sư đến liền nói: -Huynh Cần đáng mừng đại sự xong rồi.

Nămsau, Pháp Diễn cử Sư làm Đệ nhất tọa.

*

Gặp khi Linh Nguyên về trụ Hoàng Long, thiếu người ở TháiBình, Linh Nguyên tiến cử Sư với Thái thú Thơ Châu là TônĐảnh. Tôn Đảnh thỉnh Sư trụ trì Thái Bình. Khi Sư từbiệt, Pháp Diễn trao pháp y. Sư nhận và đưa lên nói vớichúng: - "Phật Thích-ca thuở xưa dùng ca-sa Kim Lan trượng sáuđắp thân Phật Di-lặc ngàn thước, thân Phật chẳng dàica-sa chẳng ngắn, hiểu chăng? Tức dạng này không dạng khác."Từ đây pháp đạo truyền rộng.

*

Niên hiệu Chính Hòa năm đầu (1111), chiếu vua mời Sư trụtrì chùa Trí Hải ở Đông Đô. Sau năm năm, Sư xin trở về,lại có chiếu chỉ mời Sư trụ Tương Sơn.

Tăng hỏi: - Thế nào là ý Tổ sư Tây sang?

Sư đáp: - Ăn giấm biết chua, ăn muối biết mặn.

Tăng hỏi: - Khi tên hết cung gãy thì thế nào?

Sư đáp: - Một trường bối rối.

Tăng hỏi: - Chẳng cùng muôn pháp làm bạn là người gì?

Sư đáp: - Bổ nát cột cái.

Tăng hỏi: - Về quê không đường thì sao?

Sư đáp: - Lộ trình của vua có hạn.

Tăng hỏi: - Trước ba ba sau ba ba là sao?

Sư đáp: - Sáu lần sáu là ba mươi sáu.

Tăng hỏi: - Được nghe Hòa thượng thân thấy Ngũ Tổ Diễnphải chăng?

Sư đáp: - Trâu sắt nhai nát cỏ vàng ròng.

Tăng thưa: - Thế ấy là thân kiến Ngũ Tổ Diễn?

Sư bảo: - Ta cùng ông có oán thù gì?

Tăng hỏi: - Chỉ như Đạt-ma thấy Võ Đế ý chỉ thế nào?

Sư đáp: - Lời Hồ dễ biện tiếng Hán khó rành.

Tăng hỏi: - Vì sao lặng lẽ thầm qua sông?

Sư đáp: - Nhân gió giúp tiện.

Tăng hỏi: - Thế nào là khách trong chủ?

Sư đáp: - Tiến trước lùi sau buồn chết người.

Tăng hỏi: - Thế nào là chủ trong khách?

Sư đáp: - Lời chân thật thành vọng ngữ.

Tăng hỏi: - Thế nào là khách trong khách?

Sư đáp: - Phu Tử dạo đi ách tại Trần.

Tăng hỏi: - Thế nào là chủ trong chủ?

Sư đáp: - Trọn ngày đồng đi chẳng bạn bè.

Tăng hỏi: - Chủ khách đã nhờ Thầy chỉ dạy, việc hướngthượng trong tông thừa thế nào?

Sư đáp: - Búa lớn chặt rồi tay bóp xoa.

Tăng hỏi: - Tức tâm tức Phật thì chẳng hỏi, phi tâm phiPhật việc thế nào?

Sư đáp: - Hôm qua có Tăng hỏi, lão tăng chẳng đáp.

Tăng hỏi: - Chưa biết cùng tức tâm tức Phật cách nhau baonhiêu?

Sư đáp: - Gần thì ngàn muôn dặm, xa thì chẳng cách mảytơ.

Tăng hỏi: - Bỗng bị học nhân cắt đứt hai đầu, về nhàngồi yên lại là sao?

Sư hỏi: - Ông ở chỗ nào?

Tăng thưa: - Một thân tự do trong đại thiên sa giới.

Sư bảo: - Chưa đến nhà, nói lại.

Tăng thưa: - Học nhân đến trong đây liền được đông tâychẳng biện, nam bắc chẳng phân.

Sư bảo: - Chưa là phần ngoại.

*

Sư thượng đường: Chí đạo không khó, chỉ hiềm giản trạch,hoa đào hồng hoa lý bạch, ai bảo chung chung chỉ một sắc,chim yến kêu hoàng oanh hót, ai bảo đồng đồng chỉ mộttiếng. Chẳng thấu được then chốt cửa Tổ sư, nhận suôngnúi sông làm tròng mắt.

Sư thượng đường: Nhật nhật nhật tây chìm, nhật nhậtnhật đông lên, nếu muốn học Bồ-đề. Sư ném cây gậynói: - Chỉ xem khuôn mẫu này.

Tuần giáp năm Thiền sư Pháp Diễn, Sư thượng đường: Nămtrước cũng ngày này, lò hồng mảnh tuyết bay, ngày nay cũngnăm trước, bọn gái đọc bia đêm. Một câu ở rốt sau, mắtPhật cũng khó thấy, sen trắng trên đảnh núi, trời đỏnhiễu Tu-di, chim mổ cây san hô, cá kình nuốt trâu nước,Thái Bình gia nghiệp ấy, ngàn xưa noi Dương Kỳ.

Sư thượng đường cầm ngang cây gậy nói: - Trước chiếusau dụng. Dựng đứng cây gậy nói: - Trước dụng sau chiếu.Xoay tròn cây gậy nói: - Chiếu dụng đồng thời. Đưa lênmột cái nói: - Chiếu dụng bất đồng thời. Cả thảy cácông bị một cái miệng cây gậy nuốt hết rồi, chính làcác ông không biết. Nếu nhằm trong ấy nói được một câuchuyển thân, khỏi thấy một trường hơi ngạt. Nếu chưanhư thế, lão tăng ngày nay thất lợi.

Sư thượng đường: Quạ vàng gấp thỏ ngọc chóng, sáng trôigấp gấp mười tháng bảy. Du Tử không cùng chẳng về nhà,dù về chỉ ở trước cửa đứng. Trước cửa đứng, nắmtay lôi gã chẳng chịu vào, muôn dặm xem xem tất cỏ không,hoa rơi đầy đất không người lượm. Không người lượmmột lần mưa qua một lần ướt.

Sư thượng đường: Thế Tôn có mật ngữ Ca-diếp chẳng chegiấu. Sư bảo: - Ngươi bình thường nói vàng nói đen bìnhphẩm cổ kim, há chẳng phải mật ngữ. Ngươi bình thườngbẻ quanh cúi ngước lấy muỗng cầm đũa chắp tay vái chào,là che giấu chẳng che giấu. Bỗng nhiên đầy đất đi cũngkhông thể biết. Cần hiểu chăng? Thế Tôn có mật ngữ, đôngđến hàn thực trăm lẻ năm. Ca-diếp chẳng che giấu, nướcrỉ chẳng thông đã bày tang vật. Thiền tăng lanh lợi nếuhiểu được, một lớp trên tuyết một lớp sương.

*

Sư thượng đường: Việc ngày mười lăm về trước trêngấm thêu hoa, việc ngày mười lăm về sau như biển nổi hònbọt, chính ngày mười lăm giống hệt chiếc gương một thướcsoi hình tượng ngàn dặm. Tuy là chân không bặt dấu, ngạigì hải ấn phát quang, mặc tình cột cái nở hoa, nói gì mặtPhật trăm xấu. Cớ sao? Đến nơi trăng đêm sương, dần dàrơi suối trước.

Sư thượng đường nhắc lại Tăng hỏi Triệu Châu: - Thếnào là nghĩa chẳng đổi? Triệu Châu lấy tay làm thế nướcchảy. Vị Tăng có tỉnh. Lại vị Tăng hỏi Pháp Nhãn: - "Chẳngthủ nơi tướng như như bất động", thế nào chẳng thủnơi tướng thấy được như như bất động? Pháp Nhãn nói:- Trời mọc phương Đông tối lặn Tây. Tăng ấy có tỉnh.Nếu nơi đây thấy được, mới biết nói: "Xoay non ngã núixưa nay thường lặng, sông rạch đua tràn vốn tự chẳng chảy."Nếu chưa như thế, chẳng khỏi lại vì buông lời, trời xoaytrái, đất xoay mặt, xưa qua nay lại trải bao phen, gà vàngbay thỏ ngọc chạy, vừa mới ra cửa biển, lại rơi sau núixanh, sông rạch sóng ào ào, Hoài, Tế lượng ầm ầm, thẳngvào sông cái ngày đêm chảy. Sư liền lớn tiếng nói: Chưthiền đức! Lại thấy như như bất động chăng?

*

Trong thất Sư dùng gỗ làm sáu cái đầu tử mỗi mặt đềukhắc chữ công. Tăng vừa vào, Sư liền ném nói: - Hội chăng?Tăng nghĩ hay chẳng nghĩ. Sư liền đánh đuổi ra.

*

Ngày mùng tám tháng chín, Sư thượng đường: Tâm ấn Tổsư dáng giống máy trâu sắt, đi liền ấn đứng, đứng liềnấn phá, dù cho chẳng đi chẳng đứng cũng chưa phải là chỗhành lý của Thiền tăng. Làm sao phải chỗ hành lý của Thiềntăng? Đợi tháng mười trước sau vì các ông chú phá.

*

Đến ngày mùng tám tháng mười, Sư tắm gội đắp y ngồingay thẳng, tay cầm bút viết một số thơ từ biệt bạn cũ,dừng bút Sư tịch.



8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567