HTThích Thanh Từ
TẬP 3
ỞĐẩu Suất phủ Long Hưng - (1044 - 1091)
Sư họ Hùng, quê ở Cám Châu. Buổi đầu Thủ chúng ở ĐạoNgô, lãnh một số chúng đến yết kiến Hòa thượng Trí ởVân Cái. Trí đàm luận với Sư chưa bao nhiêu đã biết chỗuẩn tích, bèn cười bảo: - Xem Thủ tọa khí chất phi phàm,tại sao thốt ra lời dường như kẻ say?
Sư đỏ mặt xuất mồ hôi thưa: - Cúi mong Hòa thượng chẳngtiếc từ bi.
Trí lại dùng lời châm chích thêm. Sư mờ mịt, liền xin nhậpthất. Trí hỏi: - Từng thấy Hòa thượng Ngộ ở Pháp Xướngchăng?
Sư thưa: - Từng xem Ngữ lục của Ngài, tự hiểu rõ cũngkhông mong thấy.
Trí hỏi: - Từng thấy Hòa thượng Văn ở Động Sơn chăng?
Sư thưa: - Người Quan Tây không đầu não, mang một cái quầnvải khai nước đái, có chỗ nào hay?
Trí bảo: - Ông chỉ đến chỗ khai nước đái tham lấy.
Sư theo lời dạy đến yết kiến Hòa thượng Văn thâm nhậnđược áo chỉ. Sư trở lại yết kiến Hòa thượng Trí. Tríhỏi: - Sau khi thấy người Quan Tây đại sự thế nào?
Sư thưa: - Nếu chẳng được Hòa thượng chỉ dạy đã luốngqua một đời.
Sư bèn lễ tạ. Sư trở lại yết kiến Chơn Tịnh.
*
Sau Sư khai pháp ở chùa Lộc Uyển, có Thiền sư Thanh Tố làngười đã tham vấn lâu nơi Từ Minh, tạm ở một cái thấtchưa cùng Sư giao tiếp. Sư nhân ăn trái vải, gặp Thanh Tốqua cửa. Sư gọi: - Này ông già! Đây là hương quả mời cùngăn.
Tố nói: - Sau khi Tiên sư tịch đã lâu không được ăn thứnày.
Sư hỏi: - Tiên sư là ai?
Tố nói: - Từ Minh, tôi hầu hạ người mười ba năm.
Sư nghi sợ nói: - Mười ba năm kham nhẫn hầu hạ, chẳng đượcđạo kia là sao?
Từ đây nhân ăn quả, Sư thường thường thân cận. Tố hỏi:- Thầy đã thấy người nào?
Sư thưa: - Động Sơn Văn.
Tố hỏi: - Văn thấy người nào?
Sư thưa: - Hoàng Long Nam.
Tố bảo: - Nam tấm biển thấy Tiên sư chẳng lâu, pháp đạochấn hưng như thế.
Sư càng nghi sợ, bèn sắm hương đèn đến lễ Tố. Tố đứngtránh nói: - Tôi do phước mỏng Tiên sư thọ ký chẳng chovì người.
Sư càng thêm cung kính. Tố bảo: - Vì thương lòng thành củaông, trái lời ký của Tiên sư. Ông bình sanh sở đắc thửnói ta xem?
Sư thưa đủ sở kiến.
Tố bảo: - Khả dĩ vào Phật mà không thể vào ma.
Sư thưa: - Vì sao vậy?
Tố bảo: - Há chẳng thấy cổ nhân nói một câu rốt sau mớiđến lao quan.
Như thế mấy tháng, Tố mới ấn khả, bèn răn rằng: - Văndạy ông đều là chánh tri chánh kiến, song ông lìa Văn quásớm nên không thể tột chỗ diệu kia. Nay tôi vì ông điểmphá, khiến ông thọ dụng được đại tự tại, ngày khácchớ có nối pháp tôi.
Sau Sư nối pháp Chơn Tịnh.
*
Tăng hỏi: - Cầm binh khiển tướng phải nhờ hổ phù củavua, lãnh chúng dạy đồ thầm mang Tổ sư tâm ấn, thế nàolà Tổ sư tâm ấn?
Sư đáp: - Đầy miệng nói chẳng được.
Tăng hỏi: - Chỉ cái này hay lại có cái khác?
Sư đáp: - Chớ đem hạc chạy trốn, gọi là ngỗng cầm quân.
Tăng hỏi: - Thế nào là cảnh Đẩu Suất?
Sư đáp: - Một nước nổi màu lam, ngàn núi gọt ngọc biếc.
Tăng hỏi: - Thế nào là người trong cảnh?
Sư đáp: - Bảy trũng tám gò không người thấy, trăm tay ngànđầu chỉ tự biết.
*
Sư thượng đường: Tai mắt một bề trong, ở yên trong hangvắng, gió thu vào cổ tùng, trăng thu sanh sông biếc. Thiềntăng khi ấy lại cầu chân, hai con khỉ đột bốn đuôi duỗi.Sư hét một tiếng.
*
Sư thượng đường: Đẩu Suất trọn không biện biệt, lạikêu rùa đen là trạnh, không thể nói diệu bàn huyền, chỉbiết khua môi động lưỡi, khiến cho Thiền tăng trong thiênhạ xem thấy trong mắt một giọt máu, chớ có đổi sân làmhỉ người tiếu ngạo Yên Hà đó chăng? Sư im lặng giây lâunói: Thổi lên một bản thăng bình nhạc, mong được sanh bìnhchưa hết sầu.
Sư thượng đường: Mới thấy tân xuân lại sang đầu hạ,bốn mùa dường tên sáng tối như thoi, bỗng chợt mặt hồngtrở thành đầu bạc, cần phải nỗ lực riêng dụng tinh thần,cày lấy vườn ruộng của mình, chớ phạm lúa mạ của người,tuy nhiên như thế kéo cày mang bừa, phải là con trâu trắngở núi Tuyết mới được. Hãy nói lỗ mũi ở chỗ nào? Sưim lặng giây lâu nói: - Bậy! Bậy!
Sư thượng đường: Thường cư vật ngoại qua thời rỗi,cầm ngang ống sáo thổi lưng trâu, một bản tự yên núi tựbiếc, tình này chẳng với mây trắng bay. Rất thích, chư Thiềnđức! Nhớ lại Phạm Lãi dối vượt sóng to, nhân nghĩ TrầnĐoàn ngủ rỗng trên ngọn Thái Hoa, đâu từng mộng thấyluống được cao danh, thật chưa thần đạo nhàn du dấu quê.Tuy nhiên như thế, Thiền tăng mắt sáng chớ nói, Long An tựkỷ kia. Tốt!
*
Thượng đường: Không pháp cũng không tâm, không tâm lạigì xả, cần chân trọn thuộc chân, cần giả toàn về giả,trên đất bằng chèo thuyền, trong hư không cỡi ngựa, ngườichín năm nhìn vách, có miệng lại như câm. Tham!
Thượng đường: "Đêm đêm ôm Phật ngủ, ngày ngày cùng Phậtđi, ngồi đứng cùng theo nhau, nói nín đồng chung ở, muốnbiết chỗ Phật đi, chỉ lời nói này vậy." Chư Thiền đức!Cả nhà Phó Đại sĩ chỉ biết ôm cột cầu, tắm rửa đeodây neo thuyền trên bản in đập đem lại, trong khuôn mẫugỡ đem đi. Đâu biết nói: Thiền tăng bản sắc lấp bíthang Phật Tổ, đập nát cửa huyền diệu, nhảy ra hầm đoạnthường, chẳng nương cảnh thanh tịnh, trọn không một vậtriêng vận dụng hai nắm tay, trên biển đi ngang dựng nhà lậpnước. Có một nhóm, cần nhằm trên đầu sào trăm thướcngồi yên lặng lẽ, đến lúc thân nhào bỏ mạng không được.Đâu chẳng thấy Đại sư Vân Môn nói: Biết là việc này,ném qua một bên, dù cho thôi động tinh thần mắc chút gâncốt, nhằm trước khi hỗn độn chưa phân tiến được vẫnlà kẻ độn, đâu kham ở trên đầu lưỡi người nếm đượcmùi vị, trọn không có ngày liễu ngộ. Chư Thiền khách! Cầnhội chăng? Vén đứng lông mày có khó gì, rõ ràng chẳng thấymột mảy tơ, gió thổi bầu trời mây nổi nát, trên trăngnúi biếc ngọc một hòn. Sư hét một hét xuống tòa.
*
Một hôm, Tào Sử Vô Tận cư sĩ Trương Công Thương Ưởngđi thanh tra qua Phần Minh thỉnh Trưởng lão năm viện đếnVân Nham thuyết pháp. Sư đăng tòa rốt sau, cầm ngang cây gậynói: Chư thiện tri thức mới đến, nắm ngang buông dọc, đứngthẳng ném xiên, đổi bước dời thân dấu đầu bày sừng,đã ở trước mặt học sĩ mỗi vị nhận bại quyết, chưakhỏi ăn gậy đau trong tay Đẩu Suất (Sư), đến trong đâychẳng do ngọt cho ngọt. Cớ sao? Vì thấy sự bất bình đâunhẫn được. Thiền tăng chánh lệnh tự phải hành, chao câygậy xuống tòa.
*
Trong thất Sư dùng ba câu nói để nghiệm học giả:
1. Vạch cỏ xem gió chỉ mong thấy tánh, chính nay Thượng tọatánh ở chỗ nào?
2. Biết được tự tánh mới thoát sanh tử, khi chết rồilàm sao thoát?
3. Thoát được sanh tử liền biết chỗ đi, bốn đại phânly nhằm chỗ nào đi?
*
Niên hiệu Nguyên Hựu thứ sáu (1091) vào mùa đông, Sư tắmgội xong, họp chúng nói kệ:
Bốn mươi tám năm,
Thánh phàm giết sạch,
Chẳng phải anh hùng,
Long An đường trơn.
Sư ngồi yên thị tịch, thọ bốn mươi tám tuổi. Vua sắcphong Chơn Tịnh Thiền sư.