- Chương một: Tôn Giáo của Chúng Ta Tào Động Tông
- Chương hai: Tự Viện, Tăng Lữ, Nghi Lễ
- Chương ba: Tông Chỉ, Giáo Nghĩa và Thánh Điển
- Chương bốn: Sinh Hoạt Tín Ngưỡng Của Đàn Tín Đồ
- Chương năm: Di Tích Của Lưỡng Tổ Đại Sư
- Chương sáu: Tư Liệu Tham Khảo
- Chương bảy: Tiểu Sử Tác Giả Đông Long Chơn
- Chương cuối: Lời Cuối Sách
Nguyêntác:Azuma Ryushin (Đông Long Chơn) - Việt dịch: Thích Như Điển
ChùaViênGiác Hannover Đức Quốc và quý Phật Tử tại Mỹ Châu– Úc Châu ấn tống 2008
Tông Chỉ,Giáo Nghĩa và Thánh Điển
IV. Tông Chỉ,Giáo Nghĩa và Thánh Điển
IV.1 YếuĐiểm Của Tọa Thiền
Yếuđiểmcủa việc Tọa Thiền căn cứ theo “Tọa Thiền DụngTâm Ký”.
IV.1.1Tào Động Tông Là Tông Tọa Thiền
TàoĐộng Tông là Tông Tọa Thiền cho nên Tăng lữ, Đàn Tín Đồvà những ai mang tâm nguyện vào cửa Tào Động phải cung kínhĐức Thích Ca Mâu Ni Phật, đấng Giáo Chủ và Lịch ĐạiTổ Sư, và tin rằng từ Phật cho đến chư vị Tổ Sư cómột sự truyền thừa liên tục, thuần nhất với Phật tâm(chơn tâm) và truyền thống, tiêu biểu là Cao Tổ Thiền SưĐạo Nguyên và Thái Tổ Thiền Sư Oánh Sơn, cho nên phải vữngtin và tuân thủ những lời giáo huấn và sống với Tông Chỉ,như Chỉ Quán Đả Tọa (chỉ chuyên tâm ngồi thiền), TứcTâm Thị Phật (cung cách ngồi thiền và tâm sống động nhưĐức Phật đang sống). Trong “Tào Động Tông Tông Chế”phần “Tào Động Tông Tông Hiến” ghi thật rõ ràng: “BổnTông luôn tôn trọng Chánh pháp, do Phật Tổ truyền nhau; Phápchỉ quán đả tọa, tức tâm thị Phật đương nhiên là sựtruyền thừa và là Tông Chỉ”.
Bởitọa thiền là Tông Chỉ của Tông Tào Động, cho nên căn bảnsinh hoạt của Tông là hành thiền, thực tập tự giác nhưPhật, sống và sinh hoạt thực tiển như Đức Phật. Mỗingày ít nhất phải ngồi thiền 3 thời.
IV.1.2Thiền Và Lịch Sử
Thiền,tiếng Sanskrit là Dhyana, tiếng Pàli là Jana, có từ thời ẤnĐộ cổ đại, người Trung Hoa dịch là Thiền Na, gọi tắtlà Thiền, nghĩa là tập trung tư tưởng vào một chỗ, tưduy thâm sâu và yên tĩnh quán tưởng. Tiếng Sanskrit còn gọilà Samadhi, dịch âm là Tam Muội, còn dịch là Định, chỉcho trạng thái tâm an tĩnh, tâm đang an định. Trước đâychữ Định giống như chữ Thiền, về sau hợp chung lại gọilà Thiền Định.
Theonghĩa đơn thuần chữ Hán, Thiền nghĩa là các vị Thần trêntrời hay các vị Thần ở cửa sông hay Thần đất đai, khicử hành tế lễ gọi là “Phong Thiền. Khi Thiên Tử truyềnban địa vị cho ai, gọi là “Thiền Nhượng”. Chữ “ThịThiên” nghĩa là chỉ ra đơn lẽ, công bình. Theo Phật GiáoThiền là tập trung tâm, suy nghĩ thâm sâu, an tịnh quán tưởng,ngoài ra không còn nghĩa khác, song ngày nay khi dùng chữ Thiền,cảm nhận như đã mất đi ý nghĩa nguyên thỉ rồi.
TạiẤn, Thiền có trước thời Phật, là pháp môn tu của ôngUất Đầu Lam Phất (Udraka Ramaputra). Khi Đức Thích Tôn từbỏ Pháp Minh Tưởng, pháp tu thời Ấn Độ cổ đại, vì nhậnthấy có nhiều khuyết điểm ngay từ ban đầu của pháp mônấy và khám phá ra một pháp môn mới chính là Thiền PhậtGiáo.
TổĐạtMa Đại Sư mang pháp môn Tọa Thiền truyền thống từthời Phật truyền sang Trung Hoa trở thành Thiền của NgàiĐạt Ma Đại Sư, phát huy mạnh mẽ, đặc sắc. Về sau pháttriển về phương Nam, được Lục Tổ Huệ Năng xiển dươngđặc tính siêu việt của Thiền phù hợp với căn cơ trìnhđộ mọi nguời và hình thành một phái riêng biệt gọi làThiền Tông.
Tronglịch sử Trung Hoa, Thiền Tông phát triển càng ngày càng rộnglớn, tùy theo đời sống tu tập của từng vị Tổ quảngbá và lưu lại ảnh hình, về sau Thiền truyền sang TriềuTiên và các nước thuộc bán đảo Đông Dương (gồm ViệtNam và các nước khác). Thiền Tông Trung Hoa gọi là “NgũGia Thất Tông”, bắt đầu hệ thống từ Thiền Sư Huệ Năng,đến Thiền Sư Mã Tổ Đạo Nhất tại Giang Tây, Thiền SưThạch Đầu Hy Thiên ở Hồ Nam, tượng của Tổ Sư nầy đượcthờ tại Đại Bổn Sơn Tổng Trì Tự. Môn sinh của ThiềnSư Mã Tổ là Quy Sơn Linh Hựu Thiền Sư , đệ tử của LinhHựu là Ngưỡng Sơn Huệ Hạc Thiền Sư thuộc Quy NgưỡngTông. Rồi Thiền Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền lập ra Lâm Tế Tông.Từ hệ mạch Thiền Sư Thạch Đầu, Thiền Sư Động Sơn LươngGiới cùng với Đệ Tử, Thiền Sư Tào Sơn Bổn Tịch lậpra Tào Động Tông. Thiền Sư Vân Môn Văn Yển thành Vân MônTông. Thiền Sư Pháp Nhãn Văn Ích hình thành Pháp Nhãn Tông,tất cả gọi là 5 nhà của Thiền Tông.
Vềsau, Tông Lâm Tế chia hai: Thiền Sư Hoàng Long Huệ Nam và ThiềnSư Dương Kỳ Phương Hội trở thành Hoàng Long Phái và DươngKỳ Phái, tất cả hợp lại thành Ngũ Gia Thất Tông.
Nhưtrên đã trình bày, Thiền Sư Đạo Nguyên ở Nhật thuộc pháiHoàng Long, Thiền Lâm Tế của Thiền Sư Vinh Tây , đệ tửhọc đạo với Hòa Thượng Minh Toàn. Khi sang Trung Hoa chủyếu tu học theo Thiền Lâm Tế. Nhưng về sau học theo ThiềnSư Như Tịnh , thuần túy chánh thống của pháp hệ ThiềnSư Động Sơn Lương Giới, cho nên từ đó Thiền Tào Độngtruyền sang Nhật Bản.
IV.1.3Truyền Thống Của Tào Động Tông
ThiềnSư Đạo Nguyên chính là Thỉ Tổ của Tông Tào Động truyềnthống ở Nhật Bản. Căn cứ theo biểu đồ của lịch sửĐại Tổ Sư , thứ tự như sau:
BảyvịPhật trong quá khứ. Phật trong hiện tại là Thích Ca MâuNi Phật và các vị Tổ truyền thừa:
1.Ma Ha Ca Diếp
2.ANan Đà
3.ThươngNa Hòa Tu
4.ƯuBa Cúc Đa
5.ĐềĐa Ca
6.DiGià Ca
7.BaTu Mật
8.PhậtĐà Nan Đề
9.PhụcĐà Mật Đa
10.BàPhiếu Thấp Phược (Hiếp Tôn Giả)
11.PhúNa Dạ Xà
12.ANa Bồ Đề (Mã Minh)
13.CaTì Ma La
14.NaGià Phạt Lặc Thụ Na (Long Thọ)
15.CaNa Đề Bà
16.LaHầu La Đa
17.TăngGià Nan Đề
18.GiàDa Xá Đa
19.CưuMa La Đa
20.XàDạ Đa
21.BàTu Bàn Đầu
22.MaNoa La
23.HạcLặc Na
24.SưTử Bồ Đề
25.BàXá Tư Đa
26.BấtNhư Mật Đa
27.BátNhã Đa La
28.BồĐề Đạt Ma, Sơ Tổ Trung Quốc (cho đến đây là nhữngvị Tổ Sư người Ấn Độ)
29.TháiTổ Huệ Khả
30.GiámTrí Tăng Xán
31.ĐạiY Đạo Tín
32.ĐạiMãn Hoằng Nhẫn
33.ĐạiGiám Huệ Năng
34.ThanhNguyên Hành Tư
35.ThạchĐầu Hy Giá
36.DượcSơn Duy Nghiêm
37.VânNham Đàm Thịnh
38.ĐộngSơn Lương Giới
39.VânCư Đạo Ưng
40.ĐồngAn Đạo Phủ
41.ĐồngAn Quán Chí
42.LươngSơn Duyên Quán
43.ĐạiDương Cảnh Huyền
44.ĐầuTử Nghĩa Thanh
45.PhùDung Đạo Giai
46.ĐanHà Tử Thuần
47.TrườngLô Thanh Liễu
48.ThiênĐồng Tông Giác
49.TuyếtĐậu Trí Giám
50.ThiênĐồng Như Tịnh (cho đến đây là những Thiền Sư TrungQuốc)
51.VĩnhBình Đạo Nguyên
52.CôVân Hoài Tráng
53.TriệtThông Nghĩa Giới
54.OánhSơn Thiệu Cẩn.
Tạiđây chia hai:
MinhPhongTố Triết (từ đây xuống dưới lượt bớt)
NgaSơnThiều Thạc (từ đây xuống dưới lượt bớt).
IV.1.4Thiền Có Nghĩa Là Tọa Thiền
KhiThiền Sư Đạo Nguyên từ Trung Hoa về lại Nhật, tiếng nóiđầu tiên, được ghi trong sách “Phổ Khuyến Tọa ThiềnNghi”, là tuyên bố: “Tọa Thiền là việc tốt đẹp“.Ngài cũng giảng về pháp môn tọa Thiền thích hợp từng cánhân để “thân tâm tự nhiên thoát lạc và bổn lai diệnmục hiện tiền”. Ngài còn dạy “Chỉ quán tham thiền biệnđạo” là những đề tài khi Tọa Thiền chú tâm để thântâm rốt ráo an định, thống nhất, điều hòa, nhất là dunghòa với trong thực tế chính mình. Cho nên tham thiền mớicó thể tiến tu theo con đường Phật Đạo được.
Vảlại, Thiền Sư Đạo Nguyên nói rằng: “Tham thiền cũng chínhlà tọa thiền” vì Ngài chú trọng pháp môn hành trì ThiềnTọa hơn là nói về Thiền. Ngồi thể hiện bằng động tácnhư ngồi là rõ biết một cách đích xác về chính mình .Hơn nữa Thiền Sư Đạo Nguyên quan tâm ngồi của tọa Thiền,tham Thiền tức là Tọa Thiền còn Tham Thiền của Tông LâmTế, nhận lãnh công án từ Sư Gia, tham cứu một cách côngphu và nhập thất độc tham.
IV.1.5Chỉ Quán Đả Tọa Và Tức Tâm Thị Phật
Trong“Chánh Pháp Nhãn Tạng”, phần “Tam Muội Vương Tam Muội”tham thiền được giải thích rằng: “Thân ngồi kiết giàphu tọa, tâm cũng phải kiết già phu tọa, để cuối cùngthân tâm thoát lạc kiết già phu tọa”. Ngồi bằng thân thể,ngồi bằng tâm nghĩa là toàn thân và linh thức đều ngồi.“Ngày đêm chỉ quán phu tọa, lúc vào cũng Tam Muội VươngTam Muội” nghĩa là ngày đêm lúc nào cũng Tọa Thiền, màTọa Thiền là chỉ quán đả tọa như thế thôi.
Phậtdạy: “Ngồi thiền để thân tâm giải thoát và an lạc. Khichỉ quán đả tọa thì không cần đốt hương, lễ bái, niệmPhật, tu sám, xem Kinh v.v...
Đôikhi,Thiền Sư Đạo Nguyên dùng ngôn ngữ của Thiền Sư NhưTịnh, bổn sư Ngài dẫn chứng khi thuyết giảng về Tọa Thiềnnhư là tham thiền để thân tâm được giải thoát và an lạc,mà Chỉ Quán Đả Tọa có khả năng làm cho thân tâm giảithoát an lạc trước nhất, khi đó những pháp môn tu hành khácnhư thiêu hương, lễ bái, niệm Phật, tu sám, xem kinh v.v...không còn cần thiết nữa. Một khi thành tựu Thiền Chỉ QuánĐả Tọa, sẽ biết một cách rõ ràng “Tức Tâm Thị Phật”“tâm nầy là tâm Phật”.
Thếnhưng dù “Tức Tâm Thị Phật” nhưng không được gọi làPhật, cũng chẳng phải là linh hồn trường cửu bất diệtngoài nhục thân nầy, bởi vì tâm còn bị phiền não nhiễmô và tâm không ngoài tinh thần và vật chất của xác thịtnầy. Trong “Chánh Pháp Nhãn Tạng”, phần “Tức Tâm ThịPhật” Thiền Sư Đạo Nguyên lý giải về sự hiểu lầm“Tức Tâm Thị Phật” như sau:
Trướctiên “tâm chẳng nhiễm ô là tâm Phật” nghĩa là tâm khôngbị phiền não nhiễm ô khuấy động chính là tâm Phật. Tiếpđến “tâm nầy chánh truyền, nhứt tâm nhứt thiết pháp;nhứt thiết pháp nhứt tâm”. Tâm nầy tồn tại ở tất cảmọi nơi và trong tất cả mọi nơi đều có tâm nầy có thểgọi Pháp, sự vật, sự tồn tại. Nhứt tâm và nhứt thiếtpháp. Nhứt thiết pháp và nhứt tâm nghĩa là tất cả là một,nếu gọi bình thường là tinh thần, tâm, linh hồn, tâm linh,v.v... và các tác dụng tinh thần, tâm lý v.v.. ., không phảiTùng (từ) Tâm Thị Phật, mà là Tức Tâm Thị Phật, Ta vàĐại Vũ Trụ, tâm và vật là một (nhất như), thân tâm nhứtthể như thế, đó là Tức Tâm Thị Phật.
Kếđến “Tức Tâm Thị Phật“ là phát tâm tu hành chứng đắcquả vị Bồ Đề giác ngộ, viên mãn con đường Niết Bàncủa chư Phật”. Đạo lý Tức Tâm Thị Phật như thế, làsự thật tuyệt đối. Nói cách khác, không có tính cách nhấtđịnh về quan niệm, tất nhiên phát tâm rồi tu hành, khai,thị, ngộ, nhập rất cụ thể và thực tiển, biểu hiệnhoàn toàn rất cụ thể trên thân tâm. Nếu chẳng phát tâm,chẳng tu hành, không khai ngộ, chắc chắn rằng sẽ không thểnghiệm “Tức Tâm Thị Phật”, không thể gọi là chư Phậtđược.
Nhưthế, “Đức Thích Ca Mâu Ni đã thành Phật, chính Ngài trởthành Tức Tâm Thị Phật. Chư Phật trong quá khứ, trong hiệntại và trong vị lai phải thành Phật như Đức Thích Ca MâuNi vậy, mới gọi là Tức Tâm Thị Phật”. Nói Chư Phậtlà bao gồm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và nhiều vị Phật khác,gọi chung là Thích Tôn, mà Thích Tôn là “Tức Tâm Thị Phật“,vượt qua khỏi giới hạn của thời gian quá khứ, hiện tạivà vị lai, vượt qua ý niệm không gian, không còn lãnh vựcĐông, Tây, Nam, Bắc. Tất cả chư Phật khi thành Phật trởthành Đức Thích Tôn, vị Phật “Tức Tâm Thị Phật”.
Nhưtrước đã trình bày, phải thực hành Chỉ Quán Đả Tọamới lãnh hội Thích Tôn, mới có thể nói rằng nối thẳngtrực ngộ.
IV.1.6Tọa Thiền Dụng Tâm Ký
Nhữngđiểm quan trọng của tác phẩm “Phổ Khuyến Tọa ThiềnNghi”, do Thiền Sư Đạo Nguyên biên soạn như Tọa Thiềnphải dụng tâm và tường thật tỉ mĩ v.v... đều ghi lạiđầy đủ và trân trọng trong tác phẩm “Tọa Thiền DụngTâm Ký” của Thiền Sư Oánh Sơn, có thể nói rằng một tácphẩm giải thích, hướng dẫn phương pháp Tọa Thiền thôngdụng, thực tế và hiếm thấy. Bởi mọi nguời biết tácphẩm “Phổ Khuyến Tọa Thiền Nghi” hơn “Tọa Thiền DụngTâm Ký”, cho nên “Tọa Thiền Dụng Tâm Ký” được giớithiệu và giải thích những điểm quan trọng việc Tọa Thiền,chánh truyền từ Phật đến Tổ đến hôm nay.
IV.1.7Tọa Thiền Nghĩa Là Gì?
Tựađề “Tọa Thiền Dụng Tâm Ký” giải thích từ văn chữHán như sau: “Tọa Thiền khai sáng tâm địa, làm cho con ngườitrở nên chánh trực và an trụ vào tự thân, còn gọi là bổnlai diện mục, bổn địa phong quang và làm cho thân tâm đượcgiải thoát an lạc”. Tọa Thiền làm cho tâm được sáng sủavà an trụ. Tâm sáng suốt rõ biết và tự chiếu linh nhiên,chỉ cho chơn tâm thanh tịnh sáng tỏ, vượt khỏi thị phi,thiện ác. Như người đi tìm quê hương khác, qua lại đóđây không cần thiết nữa, bây giờ chúng ta hãy về nhà ngồiyên và lưu trú lại lâu dài.
IV.1.8Cách Dụng Tâm Thứ Nhất
Pháttâm chân thành, quyết tâm đoạn trừ vô minh (những sự mêvọng của mình), xem việc Tọa Thiền là quan trọng và cầnthiết, bỏ hết mọi ngoại duyên, tinh tấn tọa Thiền, khôngcòn gì khác hơn dụng tâm, quyết định và không còn do dự.
IV.1.8.1Điều Tâm
Điềulưu ý là khi Tọa Thiền đầu tiên điều tâm, tiếp đếnđiều thân và cuối cùng điều hơi thở.
Trướctiênlà Điều Tâm, nghĩa là bắt đầu điều chỉnh tâm mìnhkhi Tọa Thiền. Quan trọng và cần thiết là buông xả khôngvướng mắc vào những vấn đề như: kỹ thuật, học nghệ,y học, ca múa, kỹ nhạc, tranh luận, luận nghị, danh dự,lợi hại v.v... ngay cả chẳng dính mắc vào văn chương, họcthuật v.v...
IV.1.8.2Điều Thân
Tiếptheo Điều Thân, không được dùng y phục áo quần sặc sỡhay bẩn thiểu, phải mặc áo quần sạch sẽ. Ngay cả việcăn uống, ngủ nghỉ phải đầy đủ, nhưng không được ănquá no, phải ăn vừa bụng (khoảng 8 phần 10) để dễ tiêuhóa, không ăn những món ăn không thích hợp với cơ thể,không ăn thức ăn ngon, không ăn thức cay nồng, mè, khoai v.v...
IV.1.8.3Điều Tức (Điều Hòa Hơi Thở)
Cuốicùng điều hơi thở.
TọaThiền không được ngồi dựa lưng vào tường, hoặc ngồitrên ghế dựa, nơi gió nhiều, chỗ cao v.v... Điều hòa hơithở cần thiết làm cho thân thể không nóng quá mà cũng khônglạnh quá, không khí chung quanh không khô quá, không tốt chothân thể, cảm thấy khó chịu, bực dọc, hôn trầm, rơi vàochỗ hoang tưởng, khiến thần kinh quá nhạy. Nếu khó thểđiều hòa hơi thở, phải làm cho trung hòa lại. Để điềuhòa hơi thở trở lại, thỉnh thoảng mở miệng ra, hơi thởdài cứ thở dài, hơi thở ngắn cứ thở ngắn, từ từ hơithở sẽ quân bình.
Khibịnhkhó điều hơi thở được, có thể có cảm giác hôntrầm, không yên tỉnh, động đậy, khó chịu, có thể nhìnra bên ngoài, hoặc nhìn vào bên trong thân thể của mình, hayngắm Phật, Bồ Tát, hay thả hồn tư duy về sự tốt đẹp;hay tư duy ý nghĩa câu Kinh v.v... đại loại như thế, song khôngthể gọi là điều hòa hơi thở được.
Chỗan tâm – Khi hơi thở không thể điều hòa được, hãy mangtâm mình lên để nơi hai chân thử xem. Khi tâm lắng xuống,mang lên để nơi giữa hai chân mày, như khi tâm tán loạn,tư duy mũi có thẳng với đan điền (lỗ rốn) không? Bìnhthường Tọa Thiền, phải để tâm mình phía bên trái. TọaThiền lâu không điều hòa hơi thở được, đừng lo lắng.Ngữ lục chư Tổ Sư dạy vì nhìn quá nhiều hay đọc sáchquá nhiều tâm không an, thân tâm mệt mõi, nguyên nhân phátsinh ra bệnh.
IV.1.8.4Ngoại Cảnh Chung Quanh Khi Ngồi Thiền
Lúcngồi thiền, không nên ngồi những khi có nạn lửa cháy, nướclụt, gió bão, trộm cướp v.v...không nên ở những nơi gầnbiển, tửu quán, phòng dâm, đàn bà góa chồng, nơi đàn bàtụ họp, phường hát múa, những người quyền lực như Vuatôi, Đại Thần; những người tham danh lợi; những kẻ hamhý luận v.v... Không nên ngồi chỗ quá sáng, quá tối, quálạnh, quá nóng v.v... Không nên gần gũi kẻ lãng du, kỹ nữv.v... phải ở trong Tăng Đường, nơi có những Thiện Tri Thức,nơi thâm sơn u cốc, nơi trong sạch, thích hợp, thanh tịnh,không có gió, lửa, mưa, sương, vào mùa Đông phải ấm, mùaHè phải mát.
Đạotràng ngồi thiền phải lau chùi sạch sẽ, thường dâng cúnghoa hương lên Phật, Bồ Tát hay La Hán, khởi tâm từ bi, tưởngnhớ công đức của tất cả chúng sanh. Khi Tọa Thiền đãthành thục rồi, bất cứ hoàn cảnh nào cũng không chi phốingười ngồi Thiền, khi đó việc nơi chốn trở nên khôngcần thiết chọn lựa nữa.
IV.1.8.5Nội Dung Của Việc Tọa Thiền
Thậtsự, Tọa Thiền để khai mở tâm địa, an trụ vào bổn phận(chính mình) và đi vào cửa chánh của Phật Đạo, mà nhữngđiều đó liên hệ với tư tưởng của Phật Giáo.
TọaThiền và Giáo – Hạnh – Chứng:
Giáolà lý luận Phật Giáo. Hạnh là những điều thực tiển.Chứng là kết quả của Giáo và Hạnh. Tông Phái nào cũngphải nói về Giáo, Hạnh và Chứng nầy. Giáo là dạy phảibỏ những điều ác và tu những việc lành. Hạnh có nghĩalà phải nổ lực thực hiện. Còn Chứng là giác ngộ. TừGiáo đến Hạnh rồi từ Hạnh đến Chứng luôn tiến hànhnhư thế.
Thậtlà sai nếu suy nghĩ một cách nông cạn về Tọa Thiền chánhtruyền. Thật ra, Giáo là những lời dạy chơn chánh của PhậtTổ. Hành là thực hành những điều thâm diệu của PhậtTổ và Chứng là chứng được “Tam Muội Vương Tam Muội”,“bản hữu đại giác”. Từ đây Giáo, Hạnh và Chứng đượcthành lập. Bên trong tư duy như thế, bên ngoài tinh tấn hànhThiền gọi là Tọa Thiền.
TọaThiềnvà Giới, Định, Huệ:
Giớilà sinh hoạt có giới hạn. Định là tâm yên tỉnh và Huệlà thâm nhập và tư duy sâu xa về Giới và Định. Thực hànhGiới sẽ được Định và thực hành Định sẽ có Huệ. Thếnhưng, việc chánh truyền của Tọa Thiền là nơi chốn ngồithiền và thực hành Giới, Định và Huệ.
Giớicòn có nghĩa là tâm địa vô tướng. Định có nghĩa là cótướng định khi nhập vào Đại Định. Huệ có nghĩa là tướnghuệ - Đại Huệ. Theo ý nghĩa nầy, Tọa Thiền phải tu Giới,Định và Huệ vậy.
Nhưthế, ngoài Giáo, Hạnh và Chứng ra còn có Giới, Định vàHuệ nữa. Đây chính là những điểm căn bản của tư tưởngPhật Giáo.
IV.1.9Phương Pháp Ngồi Thiền Có Tính Cách Cụ Thể
Khingồi Thiền, theo nguyên tắc phải đắp y (Cà Sa), ngồi trênbồ đoàn (đường kính 38,19 cm, chu vi 119,97 cm) và 2 chân phảingồi tréo với nhau và xương sống phải thẳng xuống chỗngồi.
Phươngpháp ngồi gồm có Kiết-già phu tọa và Bán-già phu tọa. Bâygiờ sẽ nói về Kiết-già phu tọa.
Đầutiên lấy chân phải để lên bên trái, lấy chân trái đểlên trên chân phải. Còn y phục thì nên mặc cho rộng mộtchút.
Tayphải để lên chân trái và tay trái để lên trên chân phải.Hai ngón tay cái của hai bàn tay đâu lại với nhau. Hai tay đặtngang nơi vị trí của rốn mình.
Ngồingaythẳng, không được nghiêng bên trái, không được nghiêngbên phải, không được ngã phía trước và cũng không đượcngã về phía sau. Tai, vai, mũi, lỗ rốn phải tương đối thẳngtắp.
Lưỡiđưa lên hàm trên, miệng ngậm lại, lấy hơi thở từ lỗmũi. Môi và răng khít nhau. Mắt không được mở hoàn toàn,cũng không được nhắm hoàn toàn.
Hãyđiều chỉnh dáng ngồi như thế, miệng có thể mở một đôilần để cho không khí ra. Đoạn phía nửa thân hình bên trêndao động 7 hay 8 lần từ trái qua phải, từ ít đến nhiều.Rồi từ từ động tác ấy dừng lại và ngay ở điểm trungtâm là được.
Phươngpháp chánh của Hành Thiền (Tọa Thiền) là “phi tư lượng”,nghĩa là phải lìa xa tất cả những phân biệt suy nghĩ, màTheo Chỉ Quán Đả Tọa, tham thiền là một pháp môn đạian lạc, tu hành bất nhiễm ô vậy.
Nếukhi muốn xả Thiền, trước tiên phải đưa hai tay lên cao,rồi lại để lên đầu gối và dao động nửa thân trên bảyhay tám lần từ nhẹ đến mạnh, từ trái sang phải, mở miệng,thở ra và mở chân ra. Hai tay chống xuống mặt đất, từtừ đứng dậy, rồi bắt đầu đi chầm chậm.
IV.1.10Khi Buồn Ngủ Thì Phải Làm Sao?
TọaThiền mà cảm thấy buồn ngủ, nên dao động thân thể, mởmắt ra và dán tâm vào giữa hai lông mày, lau mắt và xoa bópthân thể, đi kinh hành một hơi thở nửa bước, rửa mặtlàm cho đầu lạnh, đọc lời tựa của Bồ Tát Giới Kinh,tự thệ với mình v.v... cũng có nhiều phương pháp khác nữacó thể tự mình suy nghĩ lấy.
IV.1.11Khi Tán Loạn Thì Phái Làm Sao?
Lúctâm tán loạn, không kèm chế được, hãy dùng tâm ấy đặtthẳng nơi sống mũi và đan điền. Hoặc thở hơi ra và thửđếm số lần. Nếu không trị được, hãy dùng công phu đểnghiên tầm công án. Thực hành như thế vẫn không được,dừng hít thở, dụi hai mắt và luyện tập công phu khác đểxem sao?
IV.1.12Cảnh Địa Của Việc Tọa Thiền
ThiềnSư Thạch Sương Khánh Chư , hành giả tu Thiền ở Trung Hoa,đời Đường chỉ rõ phải hướng về cảnh địa “ThấtKhứ”. Thất Khứ được giải thích như sau:
HưuKhứ:nghĩa là hãy dừng những suy nghĩ phân biệt có tínhcách bình thường lại.
HiếtKhứ:phải buông hết, từ từ làm cho thân thể an lạc.
LãnhTưuTưu Địa Khứ: tức là buông xả mọi việc, đừng giữlại nữa, như nước ao lạnh xua tan nhiệt khí phiền não,không còn bị phiền não thiêu đốt nữa.
NhứtNiệmVạn Niên Khứ: thu về một hơi thở. Khi Tọa Thiềntriệt để vượt ra khỏi thời gian.
HànThanKhô Mộc Khứ: không còn bị những sự vật cảnh tượngảnh hưởng. Tâm sáng suốt khi ngồi thiền.
CổMiếuHương Lô Khứ: nghĩa là đạt được cảnh giới Định(cổ miếu) và Huệ (hương lô).
NhứtĐiềuBạch Luyện Khứ: Trắng và đẹp như thớ gân và mềmnhư lụa trắng. Dù ở bất cứ nơi đâu, ánh sáng của việcTọa Thiền vẫn làm cho tâm thuần khiết an lạc và thanh tịnh.