Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bản sắc người Phật tử - Cương trực không a dua (nhóm chủ đề 4)

24/06/201314:08(Xem: 6417)
Bản sắc người Phật tử - Cương trực không a dua (nhóm chủ đề 4)

Khai thị của Hòa thượng Tuyên Hóa - quyển 6, phần 2

Bản sắc người Phật tử - Cương trực không a dua (nhóm chủ đề 4)

Hòa thượng Tuyên Hóa

Nguồn: Hòa thượng Tuyên Hóa

ht_tuyenhoa

Bản sắc người Phật tử - Cương trực không a dua

Tại Vạn Phật Thánh Thành, ai ai cũng không được nịnh hót, nói những lời tâng bốc người khác. Trong quá khứ, tại sao có một số người đã hoàn tục? Bởi vì họ thích được nịnh hót cho " đội mũ cao" đến đấy, đó là một hành vi xấu xa nhất. Tông chỉ của tôi vốn là không tán thán khen người, mà cũng không cố ý phỉ báng chê ai. Những lời tôi nói đều là sự thât, không thêm, cũng không bớt. Bởi vậy, tại Vạn Phật Thành đâu có ai nói hai tiếng "cám ơn", gọi là "Trực tâm thị đạo tràng", tâm ngay thẳng chính là nhà chùa đó!

Tại Vạn Phật Thành, chúng ta không nói một chút nhân tình gì. Chúng ta hoàn toàn chỉ nói về Phật Pháp, chứ không đem Phật Pháp ra để tống tặng theo lối thế thái nhân tình, tức là để lấy lòng người. Tôi cũng không cho phép đệ tử quy y tôi đến đâu là nịnh nọt, cho người "đội mũ cao". Lúc tôi mới mua Vạn Phật Thánh Thành, những đệ tử quy y tôi đều sợ đến gần tôi. Họ sợ tôi lôi thôi muốn quyên góp tiền của. Họ bảo là: "Chỗ đó sao mà lớn quá! Coi bộ trong vòng một năm, nhất định là ổng sẽ đóng cửa phá sản cho coi!". Song, tôi vẫn một mực ấp ủ ba đại tông chỉ:

"Rét chết không phan duyên,

Đói chết không hóa duyên,

Nghèo chết không cầu duyên."

Tôi cũng không đê đầu, khúm núm với ai hết. Tôi nói với quý vị một cách thật thà rằng: Tôi chẳng những không đê đầu với người, mà khi đảnh lễ Phật, Bồ Tát, tôi cũng không bao giờ nói: "Bồ Tát ơi! Xin Ngài giúp con! Lần nầy con không xong rồi..." Kể như là vừa khổ, lại vừa gian nan, nhưng tôi cũng tự mình gánh vác vượt qua, chứ không để người ta biết. Bộ tôi muốn xin sự thương hại của người ta à! --- người xuất gia gì mà như vậy ư! Bởi nhờ vào tinh thần nầy tôi mới dám nói: "Không cho phép San Francisco động đất."

Giảng ngày 29 tháng 7 năm 1986

Chủ Quan Trí Năng Thúc Đẩy Động Lực

Động lực thúc đẩy trí năng chủ quan, phương pháp giảng kinh nầy trước đây chưa hề có, nhưng không thể nói là sau nầy sẽ tuyệt hậu, không còn nữa. Theo phương pháp nầy, mỗi cá nhân đều có thể phát huy kiến giải của riêng mình, để nói ra tiếng nói của lòng mình và biểu hiện trí tuệ của chính mình. Tôi đã nghe quý vị nói pháp nhiều lắm rồi, tuy không thể nói là tôi gặt hái được nhiều điều hay, nhưng tôi được ích lợi cũng không phải nhỏ.

Hơn mười năm qua, mỗi ngày tôi đã làm thầy giảng kinh thuyết Pháp cho quý vị. Vậy bây giờ tôi là học sinh vỡ lòng theo quý vị học tập. Điều nầy thật là không thể nghĩ bàn! Làm thầy rồi lại làm trò. Nhưng nếu tôi đóng vai làm thầy giáo thì tôi sẽ không thể làm được vậy. Quý vị cần nên chú ý về điểm nầy!

Nếu quý vị không ra giảng Pháp, vậy tôi xin khấu đầu, đảnh lễ quý vị. Còn nếu quý vị vẫn không chịu đi ra thì tôi quỳ. Bây giờ có nhiều người tranh nhau lên giảng kinh trước. Công phu nầy không phải một sớm một chiều mà có được. Nghe quý vị giảng Pháp, tôi như được pháp vị cam lồ và pháp hỷ sung mãn. Những bài giảng của quý vị hôm nay, mỗi người đều có chỗ ưu điểm (sở trường) và khuyết điểm (sở đoản) của mình. Quý vị nên cùng nhau hỗ tương ngắt dài bù ngắn, đem cái hay của người để bù đắp cho cái dở của mình, đó là dùng theo biện pháp “chiết trung.” Nếu cảm thấy mình nói có đạo lý thời càng nên tự khích lệ mình thêm lên. Còn nếu mình giảng không bằng như người ta, vậy thì đừng ngại gì mà không lấy cái hay sở trường của người mà bổ túc cho cái dở sở đoản của mình. Đó là tinh thần học tập để mình ngày càng thêm phát triển.

Nhất là đừng tự mãn, tự khoe khoang, sanh tâm tự kiêu ngạo, bằng không thì đó sẽ trở thành những nhân duyên chướng đạo mình đấy. Cho nên mọi người càng nên tập trung, lấy trí huệ của mọi người làm trí huệ mình, lấy kiến giải của mọi người làm kiến giải mình. Mỗi cá nhân có thể nghe được nhiều người khác phát huy trí tuệ vốn có riêng biệt nhau. Phương pháp nầy xưa nay chưa có, nhưng tương lai về sau thì nào ai biết được.

Lại nữa, về cách thức thỉnh Pháp, trên căn bản, dù chúng ta giảng Pháp ở đâu thì cũng nên có người thỉnh Pháp. Nhưng hiện nay có một số người chỉ biết giảng Pháp, mà không biết xin thỉnh Pháp. Bây giờ Vạn Phật Thành dùng phương cách thỉnh Pháp nầy để trùng tân khiến hưng thịnh trở lại, ngõ hầu khôi phục lại những quy chế của Phật đã đặt ra.

Nghiên cứu Phật Pháp là chúng ta nên “tinh ích cầu tinh,” đã tinh thông còn muốn tinh thông hơn, mỗi ngày nên cầu tiến bộ hơn. Đừng thấy khó rồi rút lui, vì nếu vậy chúng ta vĩnh viễn sẽ không thể nào hiểu rõ được Phật Pháp. Cho nên mỗi người đều có cơ hội để giảng kinh, mỗi người đều có dịp nói lên những lời công đạo hợp lý. Nói lời công đạo, tức là chúng ta không cần phải tâng bốc, thổi phồng nhau, hoặc đề cao, nịnh bợ lẫn nhau. Nếu không, chúng ta sẽ không thể nào hiểu rõ được ý nghĩa chân thật của Phật Pháp. Ở đây chúng ta nên thật thà, nên nói lời chân thật và nói về chân lý. Chúng ta nên nói tóm tắt, đừng nói vòng vo tam quốc, thêu hoa dệt lá. Chỉ cần chúng ta giảng giải chân nghĩa của kinh điển cho rõ ràng, vậy là được rồi.

Khi nghe người giảng kinh xong, thính chúng nam nữ mỗi bên nên cử ra một người để tóm tắt phê bình. Phê bình đây không phải là với ác ý, mà là thiện ý và bình luận có tánh cách xây dựng. Nếu ai giảng không đúng, quý vị cũng có thể nêu ra để sửa đổi cho đúng. Đó là mài dũa, trau dồi, để cùng nhau sửa chữa những kiến giải không đúng. Bởi vì người trong cuộc thường mê muội, còn kẻ bàng quan thì thường tỉnh táo hơn. Nhưng không được nịnh hót, cho người ta “đội mũ cao”.

Quý vị phải “đơn đao trực nhập,” nói ra một cách thẳng thừng và “khai môn kiến sơn,” đi ngay vào vấn đề. Nếu cảm thấy chỗ phê bình không hợp lý, quý vị cũng vẫn có thể nói lên. Đây không phải là biện luận, mà nên như “nhất châm kiến huyết” là nói ngắn gọn, đúng ngay điểm quan trọng để nêu ra chỗ không đúng. Thế mới có thể như là rèn luyện trong lò lửa lớn để được vàng tinh chất. Cũng như tại chùa Thiếu Lâm, hành giả phải vượt qua đám người gỗ, nơi đám người gỗ nầy mà rèn luyện để được công phu chân thật. Nếu không thể vượt ra trận đánh, tức là họ phải luyện lại từ đầu. Nếu đánh thoát ra được, tức là họ có thể ở thế gian cưỡi mây đạp sóng để hoằng dương Phật Pháp. Đây là biện pháp tốt có thể phá trừ được tướng ngã. Đừng nên cho rằng vì người ta phê bình mình, rồi mình cảm thấy xấu hổ, hoặc là mình nêu ra khuyết điểm của người khác, nhưng lại sợ họ không chịu nỗi. Đây là chân cũng lại là chân, thật cũng lại là thật, thật thật thà thà, không được có một chút tạo tác tạp nhạp, bất tịnh nào.

Tôi tin rằng từ cổ chí kim, chưa có ai giảng kinh theo cách thức như vầy. Nhưng tại Hoa Kỳ thì đặc biệt khai mở theo phong cách khuôn phạm nầy. Hoa Kỳ là một quốc gia dân chủ, cho nên mọi người nên nói lời chân thật với cả tấm lòng chân thành của mình. Chúng ta hoằng dương Phật Pháp tại Hoa Kỳ, đi đến đâu cũng nên nói lời chân thật, thành thử chúng ta vào nước không bị chìm, vào lửa không bị đốt và không bị đao thương xâm phạm. Đừng giảng lời hư ngụy giả dối, không nói tốt để lấy lòng người, để khiến người ta có thiện cảm với mình. Tôi nói lời chân thật, dù cho quý vị giết tôi cũng không sao, chẳng hề chi. Chúng ta nên có tinh thần như thế để nói lời chân thật, dù mình có chết cũng là chết có ý nghĩa. Chúng ta nên có tinh thần bình luận như thế, chớ có lo trước ngó sau, nhút nhát rụt rè. Nếu không, chúng ta chẳng thể nào hiểu được Phật Pháp.

“Tổn pháp tài, diệt công đức,

Mạc bất do tư tâm ý thức.”

(Chứng Đạo Ca)

Làm hại Pháp, hủy diệt công đức,

Không đâu là không do tâm, ý, thức.

Tức là do tâm, ý và thức của mình sẽ hại chết mình. “Thị dữ thiền môn liễu khước tâm,” qua pháp thiền mà từ bỏ tâm. Cho nên người tham thiền không dùng tâm, ý, thức. Cái gì họ cũng không nghĩ, cũng không suy tưởng tới, nhưng lại thường tham thiền với câu “Ai là người niệm Phật?” Đây là họ đi ngược dòng trở về nguồn cội, tìm cho ra bổn lai nguồn gốc, mình vốn là thế nào? Đây gọi là: “Chuyên nhất tắc linh,” chuyên nhất tới cực điểm thì hoát nhiên thông suốt, khai ngộ và đạt được đại trí tuệ. Hiện nay có một số người giả mạo khai ngộ, hoặc tìm người chứng minh rằng mình đã khai ngộ rồi. Đó là vì ai nấy đều cho rằng khai ngộ là việc tốt, và người tu hành thì vẫn chưa quên được cái danh từ tốt nầy. Nếu bảo rằng người khai ngộ sau nầy sẽ biến thành chó, chắc người ta sẽ không nói là mình khai ngộ đâu! Tự xưng mình đã khai ngộ, vậy cũng như là người vô tri đến cực điểm rồi. Vì sao lại muốn tự quảng cáo để nói cho người khác biết. Như thế là có ý gì? Đó cũng vẫn là để phan duyên, tự mình khua chiêng đánh trống. Nếu thật sự hiểu biết thì mình sẽ không tìm cầu danh lợi, mình cũng không ích kỷ, tự lợi đâu. Mỗi người nên làm việc với tinh thần vì Phật Giáo, chứ không phải cái nầy cũng sợ, cái kia cũng sợ, sợ luôn cả lá cây rơi xuống sẽ làm vỡ đầu, bể óc mình.

Người giảng kinh nên nói tóm tắt vào chỗ trọng yếu, đừng nhây nhưa, rắc rối. Những lời quý vị giảng thì nhất định phải có liên hệ đến ý kinh. Quý vị không được mang giấy ghi sẵn tài liệu lên bục giảng. Khi rút thăm (thẻ tre có ghi danh), rút đến tên ai thì người đó nhất định phải lên giảng. Quý vị không được thoái thác, vì như thế là trái với pháp lệnh, là không tôn trọng pháp. Đây là một thiên mệnh, rút đúng tên ai thời người đó phải lên giảng. Nếu không lên giảng tức vị đó đã làm trái với pháp công cộng. Dù là vị nào đi chăng nữa, cũng không được nói rằng:

- Hôm nay tôi không nói đâu.

Ai có hành vi như thế, dù có giảng hay bao nhiêu, người đó cũng không được điểm nào hết. Nếu như không có chuẩn bị, nhưng quý vị lại thường lên giảng thì mới tính. Còn như quý vị có chuẩn bị để lên giảng thì không tính. Nếu quý vị lên giảng mà mang theo giấy tờ cũng không được điểm nào. Tại sao? Vì không hợp quy củ! Cầm giấy lên đọc, đó là lừa dối mọi người, chỉ thêm sự quấy rầy thôi. Bởi quý vị không chú ý nghe giảng nên mới đem giấy tờ bài bản theo. Ở đây chúng ta không phải là “Open Book Test” thi được mở sách.

Khi thuyết giảng: Nếu biết thì nói chỗ mình biết, không biết thời không được nói mình biết, đừng giả bộ. Nếu vốn không biết câu chuyện là thế nào, vậy ta đàm huyền thuyết diệu để làm chi? Đó cũng như là nuốt trửng cả sách vở chớ mình có biết gì, vậy nói ra đâu có giá trị chân chánh gì? Cho nên muốn có cái trí chân thật và kiến giải rõ ràng, thời đừng vẽ rắn thêm chân, làm chuyện dư thừa.

Với phương pháp giảng kinh nầy, mỗi người sẽ tự phát huy trí huệ vốn có của mình. Lúc có người bên phía nam đang giảng trên bục, người kế tiếp nên ngồi dưới bục để chờ đến phiên mình. Bên phía nữ cũng vậy. Như vậy mọi người sẽ không vọng tưởng nghĩ ngợi rằng: “Kế tiếp sẽ đến phiên ai đây?” Nếu có người lên trước chờ thì sẽ khiến cho mọi người được yên tâm, còn tự người đó cũng có thể nhân cơ hội nầy mà an tĩnh chốc lát để chuẩn bị thuyết Pháp. Tuy nhiên, không phải ai ai cũng suy đoán: “Kế tiếp nữa sẽ đến phiên ai?” nhưng trong đại chúng cũng có người rất là sốt ruột, chẳng yên.

“Thiên hạ bổn vô sự, dung nhân tự nhiễu chi.” Thế gian vốn không có chuyện gì, nhưng người ngu lại muốn tìm chút chuyện để làm. Bởi vậy, gặp tình cảnh nào họ cũng đều chấp trước hết. Phương pháp giảng kinh nầy vốn rất tự nhiên, người trí thấy trí, người nhân từ thấy nhân từ, người sâu sắc sẽ thấy sâu sắc, người nông cạn thì thấy nông cạn. Mỗi mỗi đều có sở trường riêng, đạo lý giảng thuyết của mỗi người cũng không giống nhau. Nay chúng ta sẽ thâu lấy hết các thứ khác biệt đó, rồi bỏ chung vào một lò để cùng luyện đúc, hầu tập hợp trí tuệ của chúng sanh để kết tập thành những suy tư hữu ích và sâu rộng. Như thế thì người không có trí huệ cũng biến thành người có trí huệ. Tại sao? Bởi chúng ta có nhiều cơ hội học tập và trí huệ sẽ dần dần phát sanh. Đấy là lúc mọi người lấy dài bù ngắn, căn cứ vào luận lý lôgíc và chân lý, chúng ta sẽ rất mau thâm nhập được kinh tạng, trí huệ như hải. Một khi đã có trí huệ như hải, dù gặp chuyện gì đi chăng nữa, chúng ta cũng có thể giải quyết dễ dàng như chẻ tre. Cũng như tấm gương chiếu rõ mọi vật, lúc việc đến thời đối ứng, việc qua rồi thời tĩnh lặng. Điều nầy đối với việc nghiên cứu Phật Pháp rất là trọng yếu vậy.

Còn một điểm nữa, lúc lên đài tập giảng, nếu quý vị có những lối nói theo kiểu quen miệng quen mồm, hoặc giả có chút cử chỉ gì không đàng hoàng thì cũng nên bỏ đi. Ở đây một mặt là học tập giảng kinh văn, một mặt là học tập cách diễn giảng trước đại chúng. Tôi thấy mọi người mỗi ngày một thêm tiến bộ, từ từ đi trên con đường chánh đáng. Lại nữa, người không biết tiếng Hoa, nhất định phải nói tiếng Hoa, và người không biết tiếng Anh, nhất định phải nói tiếng Anh.

Ở đây có rất nhiều người Tây phương, hồi trước họ cũng đâu có biết nói tiếng Hoa, nhưng vì bị bắt buộc học mà nay họ cũng biết được rồi. Tôi có một đệ tử rất thích ăn kẹo, nhưng cậu ta thà rằng không ăn kẹo chứ không muốn bỏ học nói tiếng Hoa. Bây giờ cậu ta đã nói được rồi đó. Ở đây người Tây phương nên nói tiếng Hoa, người Hoa thì nên nói tiếng Anh để cho ngôn ngữ đông tây cùng nhau giao lưu thành một khối. Mức độ tối thiểu là quý vị nên biết hai ngôn ngữ. Nếu quý vị có thể tiếp tục học thêm một chút nữa như tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Ý..., như vậy trong tương lai sẽ rất tiện lợi đối với việc đi ra ngoài hoằng dương Phật Pháp. Xin quý vị đừng bỏ sót điểm nầy.

Tôi rất là hổ thẹn vì tôi đã không biết các ngôn ngữ khác. Như mới gần đây, khi đi Indonesia, bởi không biết tiếng Nam Dương nên tôi như người điếc vậy. Quý vị là những người còn trẻ, bây giờ quý vị có cơ hội để luyện tập, tương lai quý vị sẽ làm trụ cột của Phật Giáo. Đó là kỳ vọng mà tôi đặt hết vào quý vị đấy.

Giảng ngày 6 tháng 8 năm 1986

Trì Giới Có Khả Năng Đào Luyện Tự Tánh

Khi thọ giới rồi thì chúng ta cần phải giữ giới. Giới tức là: Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, nghĩa là: Không làm các việc xấu và làm tất cả việc lành. Giới cũng là: Chỉ ác phòng phi, nghĩa là: đình chỉ, ngưng làm các việc ác và phòng tránh phạm lầm lỗi. Sau khi thọ giới rồi, chúng ta phải dựa trên căn bản: “Chỉ ác phòng phi, chư ác mạc tác và chúng thiện phụng hành” mà làm theo, đó chính là chúng ta đang giữ giới. Từ trong tư tưởng cho đến hành động, chúng ta đều nên cố gắng tận lực để ngưng làm các điều xấu ác, và cũng đem hết sức mình làm các việc tốt lành để giúp đỡ mọi người. Trong mỗi thời mỗi khắc, nên tự đề phòng những tư tưởng, hành vi không hợp lý, không hợp pháp của mình. Đó là ý nghĩa của giới đấy. Phật tử giữ giới hãy nên chú ý điểm nầy. Như vậy quý vị có thể làm theo được không?

Sau khi quy y Tam Bảo rồi, quý vị lúc nào cũng nên giữ lòng cung kính đối với Phật, Pháp, Tăng. Bởi vì tất cả do tâm tạo, nếu tâm thường cung kính Tam Bảo, lâu dần tự nhiên nó sẽ hợp nhất cùng Tam Bảo thành Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo và Giới Bảo. Quý vị đã quy y Phật, khi gặp tượng Phật thì đều nên cung kính, lễ bái. Kinh Phật cũng nên được để phía trên các sách vở thế tục và đặt ở nơi chốn tôn nghiêm. Tốt nhất là những kinh Phật nên được để ngay ngắn một cách tôn trọng, đừng bỏ trên cầu thang, nơi lối người qua lại, mà nên để ở chỗ sạch sẽ. Giờ khắc nào chúng ta cũng nên tôn kính Phật, Pháp, Tăng và Giới, nhất là trong tâm cũng không nên có chút khinh mạn, xem thường.

Trì giới tức là thanh tịnh tự tánh của mình, là quét sạch hết tất cả những đám mây đen hắc ám trong tự tánh đi; không giữ giới tức là mây đen trùng trùng vô tận. Nếu chúng ta càng không giữ giới, mây đen sẽ càng nhiều thêm, giống hệt như mây đen trên bầu trời vậy. Người không giữ giới, tức là trong tự tánh đang sanh sản đám mây đen ô nhiễm. Mình không giữ giới, thế thì không phải là người khác bị thương, mà chính là tự mình thọ thương, tự tánh của chính mình bị tổn thương thôi. Cho nên chúng ta cần phải nghiêm giữ giới luật. Trì giới là Chánh pháp, không trì giới là Mạt pháp.

Khi nghe giảng Phật Pháp, chúng ta không cần phải tham nghe cho nhiều. Điều trọng yếu chỉ là dừng việc ác, ngừa tội lỗi, năng biết và năng hành. “Không làm các việc ác, nên làm các điều lành,” là đủ rồi.

Lúc đức Phật sắp nhập Niết Bàn, Tôn giả A Nan đã hỏi Phật bốn vấn đề. Trong đó có một việc mà ông đã hỏi như: Khi Phật còn tại thế thì chúng con lễ bái Phật làm thầy, nhưng Phật nhập Niết Bàn rồi, chúng con nên lấy ai làm thầy? Lúc bấy giờ, Phật đã nói một cách trịnh trọng với chúng đệ tử xuất gia và tại gia rằng: “Lấy giới luật làm thầy.” Cho nên khi chúng ta niệm quy y, đó cũng là niệm quy y giới, tức là lấy giới làm thầy.

Quý vị muốn chân chánh học Phật Pháp thời phải lấy giới làm thầy, chứ không phải nói giới, giới, giới trên miệng lưỡi, mà giới phải ở ngay trong tâm. Người không phạm năm giới thì trong tâm sẽ quang minh xán lạn. Đối với người phạm giới, quý vị nghe họ nói chuyện là biết họ đang có quỷ ở bên trong, khiến họ không thể dương mặt dương mày để nói năng hùng hồn, đúng với lý lẽ. Sau lưng họ chắc có sợi dây để kéo, giống như quỷ đang giựt đuôi họ, làm cho họ e sợ đấy thôi!

Bất luận tôi đi đến đâu, không hiểu tại sao, dù tôi không có đeo súng đạn hay vũ khí gì trên thân, vậy mà những người tà lý, tà khí hễ thấy tôi là họ sợ sệt. Thậm chí họ sợ đến nỗi run rẩy, nơm nớp, ngay cả nói chuyện cũng không dám nói, nhìn cũng không dám nhìn mặt tôi. Hôm nay tôi nói cho quý vị biết là tại sao thế! Bởi vì họ không giữ giới, cả ngày cứ ở trong đám mây đen, ẩn trốn trong chỗ hắc ám tối đen, cho nên mới không thấy được ánh sáng. Không giữ giới là biểu hiện của Mạt pháp. Quý vị muốn hộ trì Chánh Pháp thì phải giữ giới. Giữ giới không phải là bảo người ta giữ, mà tự mình phải giữ. Không giữ giới thì tự tánh bị thương, mà hễ tự tánh bị thương tức là nhiễm ô, đen tối, giống như tấm gương bị rất nhiều bụi bặm che phủ, cho nên nó không thể soi chiếu ai được.

Tự tánh của chúng ta giống như tấm gương trong sáng vậy. Bổn nguyên của chúng ta đều có Đại Viên Kính Trí, Thành Sở Tác Trí, Diệu Quan Sát Trí và Bình Đẳng Tánh Trí. Tự tánh là quang minh vô lượng, sáng tỏ không lường, nhưng vì không giữ giới, thành thử ánh sáng quang minh không xuất hiện được. Cho nên ký ức của chúng ta cũng không tốt, cái gì cũng không tốt cả. Tại sao con người ngu si? Bởi vì không giữ giới. Hiện nay lại còn có những đứa bé tâm trí suy nhược, năng lực thấp kém, đó cũng bởi kiếp trước chúng không giữ giới cho nên mới ngu si như ngựa, như trâu, tuy có thân người nhưng không có trí người, chẳng những ngu si mà còn điên đảo nữa.

Cũng như hôm nay, có người đến hỏi tôi rằng: ông ta là Bồ Tát thuộc cấp địa thứ mấy? Vốn ngay đến bờ rìa của Bồ Tát, ông ta còn chưa rờ tới được, vậy mà lại còn hỏi mình là Bồ Tát cấp địa thứ mấy? Quý vị nói là có đáng thương hay không chớ? Loại người như vậy cũng đều là không giữ giới, cho nên thần kinh mới phát cuồng.

Phật là bậc đại trí tuệ, ai có đại trí tuệ thì sẽ giống y hệt như Phật. Nếu mình không thể thành Phật được tức là vì mình không giữ giới. Đời đời, kiếp kiếp Phật đều giữ giới, giới nhỏ như tơ hào Ngài cũng không phạm. Bởi vậy mà Ngài chứng đắc được thân Phật, có Ba Thân, Bốn Trí, Ngũ Nhãn, Lục Thông. Nếu mỗi người đều có thể “không làm các việc ác, vâng làm tất cả việc lành,” thời đó tức là giữ giới.

Giảng ngày 3 tháng 9 năm 1986

Nên Bình Luận Công Bình

“Trong các loại bố thí, bố thí Pháp là tốt nhất.” Đó là loại bố thí lớn nhất, vì nó có thể thành tựu được Pháp Thân Huệ Mạng cho con người, giống như thắp lên ngọn đèn sáng trước mặt người ta vậy. Do đó, đức Phật trong suốt cuộc đời, Ngài đã không làm việc gì khác, mà chỉ lo giảng Kinh, thuyết Pháp thôi. Chúng ta là đệ tử Phật, nếu không học giảng Kinh thuyết Pháp, không học nói lời chân thật, thế thì rốt cuộc chúng ta theo Phật để học cái gì?

Bây giờ mỗi buổi tối giảng kinh đều là do mọi người thay phiên nhau lên giảng, sau rốt lại còn có người bình luận tổng quát. Như vậy thì đây càng hơn là bố thí Pháp trong những cách bố thí Pháp. Những ai chưa đi vào con đường chánh lộ, quý vị cũng nên từ từ dìu dắt, giúp họ trở lại con đường chánh. Bởi vậy, bình luận như thế nầy là quý vị đang thực hành một phần nào theo Bồ Tát đạo.

Quý vị chân chánh muốn giúp đỡ kẻ khác, chân chánh muốn cho người ta được thành tựu mà thực hành bố thí Pháp thì đừng nên thờ ơ, chẳng chịu quan tâm đến ai; nếu không, thì không phải là người tu hành chân chánh. Nhớ lại lúc ban đầu, quý vị không ai muốn lên giảng, nhưng hiện nay thì biết nhận thức hết rồi. Khi quý vị lên giảng thì đừng sợ sệt, vì không có ai đánh hay giết hại quý vị đâu. Kể như đến lúc mình phê bình thì cũng là có thiện ý, chứ đâu phải có ác ý. Như: “Tôi cảm thấy người đó không đúng nên tôi phải áp đảo y.” Ngược lại, mình nên nâng đỡ họ, bởi mình không nỡ để họ ngã quỵ xuống. Quý vị cũng đừng có giống như: anh nhìn tôi, tôi nhìn anh, để rồi ai cũng sợ đi lên bình luận, phê phán. Kể như là quý vị bình luận không đúng đi, nhưng mọi người vẫn có thể nghe thấy cách nhìn, và quan điểm của quý vị. Chúng ta nên “tinh ích cầu tinh,” nghĩa là đã tinh thuần rồi mà vẫn muốn tinh thuần hơn nữa, để không còn một mảy cặn bã nào, giống như luyện vàng tinh trong lò lửa lớn, nó phải thuần nhất chứ không được lẫn lộn với các chất tạp nhạp khác.

Hiện nay quý vị cảm thấy việc nầy không trọng yếu, nhưng tương lai khi quý vị ra ngoài hoằng Pháp, lúc đó quý vị mới biết tánh cách trọng yếu của nó. Quý vị giảng sai một chút là có thể khiến cho người ta thối thất tâm Bồ Đề rồi. Còn nếu giảng đúng, là quý vị làm cho người ta phát Bồ Đề tâm. Vì vậy, bây giờ chúng ta nên luyện tập một cách thật thà. Chúng ta không nên thêu dệt vòng vo, hoặc nói tràng giang đại hải như là viết văn chương, chỉ cần mình giảng ra được cái nghĩa lý trọng yếu của kinh văn là được rồi.

Giảng ngày 28 tháng 9 năm 1986

Rèn Luyện Trí Tuệ

Trong Pháp hội giảng kinh nầy đây, ai ai cũng đều có cơ hội lên thuyết giảng, cho nên trí tuệ của mỗi người cũng được xuất lộ ra, mà cái ngu si của mỗi người cũng bày lộ ra luôn. Người mà thật sự có trí tuệ, dù họ muốn giấu, giấu cũng không lâu đâu. Ban đầu họ có thể ẩn giấu khoảng năm ba ngày, song lâu dần thì họ cũng đâu có giấu được. Và ngược lại, người ngu si vốn muốn giả vờ rằng mình thông minh, rồi làm ra vẻ thông minh. Nhưng dù họ cố gắng học tới học lui gì thì cũng đâu có được tự nhiên. Đây mới là cuộc khảo sát thật sự! Bây giờ chúng ta lại tăng thêm mục bình luận sau chót nữa. Nếu quý vị nói hưu nói vượn gì thì vẫn còn có người phê bình quý vị. Nhưng người bình luận không được lôi thôi, nói dài hơn cả người giảng Pháp.

Chúng ta hãy nhìn xem, những bậc cổ nhân bình luận văn chương như là “họa long điểm tinh” tức vẽ rồng điểm mắt, họ chỉ dùng vài chữ đơn giản mà đầy đủ, bao la vạn hữu. Vậy thì chúng ta không cần phải “họa xà thiêm túc” tức vẽ rắn thêm chân, hoặc giả “vẻ người còn vẻ cả ruột gan” nữa.

Mọi người hãy nên xem xét kỹ, rằng: người đó lên phê bình có chính xác không? Ý kiến của người đó là thật, hay là giả. Người đó có đúng như là người chỉ đường không? Mà y chỉ đúng hay là không đúng?

Chúng ta ngày ngày rèn luyện trong lò lửa hồng, thành thử một chút cặn bã, chút tơ hào nhơ bẩn gì cũng không còn. Nếu mình chuyên tâm học Phật, bất luận là người khác có nói đúng hay không đúng, mình cũng phải chăm chú lắng nghe. Người nào không chú ý tất sẽ ngủ gà ngủ gật. Đây là sự khảo nghiệm, thử thách, thật hay giả gì cũng đều rèn luyện cho tỏ lộ ra hết.

Giảng ngày 5 tháng 10 năm 1986

Thái Độ Người Học Phật

Đạo Phật là giáo pháp xuất thế, cho nên chúng ta không phê bình tốt xấu về chuyện chánh trị, hay đảng phái nầy nọ, bởi vì Pháp là như vậy, xu hướng của thế giới là như thế. Tất cả vạn sự, vạn vật đều là đang nói Pháp. Chúng ta có thể nói rằng: Tất cả đều là “tiền nhân hậu quả” đó thôi. Từ vô lượng kiếp đến nay, nhân nầy đã được gieo xuống rồi, cho nên phải kết cái quả đó, gọi là: "như thị nhân, nhân thị quả” tức gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy là vậy, và không có một chút gì sai nhầm đâu. Nhưng theo kiến giải của phàm phu thì có cái phân biệt là đúng, hoặc là không đúng. Chúng ta đừng nên để ý đến chuyện “đúng hay không đúng,” vì đó là do con người tự sanh ra sự phân biệt thôi. Do đó, chúng ta nghiên cứu Phật Pháp hoàn toàn là vì muốn nghiên cứu đạo lý của Khổng Tử, Lão Tử và Phật Giáo. Chúng ta không bàn luận về hành động của bất cứ một đảng phái chánh trị nào, bởi vì chúng ta đâu có làm chánh trị. Chúng ta cũng không mượn Phật Pháp để phát ra những cái bất bình của mình.

Học Phật Pháp, trước hết là chúng ta phải bình lặng những cái bất bình của mình. Chúng ta không thiên tả, mà cũng không thiên hữu. Đó là tông chỉ của chúng ta khi giảng Pháp đấy.

Còn nữa, tôi không thích được người bợ đỡ, cũng không muốn ai khen tặng tôi. Tôi rất vui khi người ta phỉ báng tôi, nhưng chán ngán nhất là khi có người tán thán khen tôi trước mặt. Tôi không muốn tự thần thánh hóa mình, tôi vốn như là hư không, không hình, không tướng, không tượng, không đông tây nam bắc, không nhân, không ngã, không chúng sanh, không thọ giả. Thế thời sao lại có cái “ngã”?

Nếu có cái “ngã” tôi sẽ không đến Hoa Kỳ. Tôi đến đây không phải là để đào vàng. Ở San Francisco tuy được gọi là Cựu Kim Sơn, (núi vàng cũ) nhưng ngay cả bột vàng tôi cũng chẳng muốn. Tôi lại không biết nói tiếng Anh, một chữ a, b, c cũng không hiểu. Thế thì tôi đến đây để làm gì? Bởi tôi muốn khai khẩn vùng đất mới ở đây, ngõ hầu đem Phật Giáo truyền bá đến toàn khắp thế giới. Đó là nguyện lực của tôi.

Dù bất cứ ở đâu, tôi không muốn tự đề cao địa vị mình, tôi cũng không muốn được nổi bật. Tôi không cảm thấy rằng mình cao hơn người, giỏi hơn người, có trí tuệ hơn người. Nếu tôi nghĩ như vậy, tức là tự mãn, coi như tôi đã tiêu rồi. Bởi người tự mãn, nhất định sẽ không thành tựu được cái gì. Con người nên giống như “có cũng như không, thật cũng như hư.” Người có đạo đức nhưng giống như người không có đạo đức, có trí tuệ nhưng tợ như người không có trí tuệ, nhất là không nên tự mãn.

Một khi con người tự mãn thời sẽ tự đại, mà tự đại thì trở thành như chữ “xú” tức là hôi thúi (chữ “xú” là tiếng Hán gồm có chữ “tự” và chữ “đại” nghĩa là hôi thúi). Cho nên chúng ta ai nấy đều nên tận lực học Lục Đại Tông Chỉ: Không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ. Chúng ta phải hết sức mình làm theo sáu nguyên tắc nầy. Nếu không thể thực hành Lục Đại Tông Chỉ nầy, dù cho quý vị có tài hoa gì đi nữa, quý vị cũng chẳng có trí huệ chân thật. Thậm chí miệng lưỡi quý vị có lưu loát như nước chảy, biện tài vô ngại, tôi cũng không có hứng thú gì đâu. Tôi là kẻ chỉ biết người thật thà, chứ không biết đến kẻ xảo trá. Về sau, bất luận là người nào cũng đều phải thật thà, đừng nghĩ rằng mình có cái gì nổi bật. Hoặc kể như là quý vị phi thường, nổi bật đi, quý vị cũng đâu cần phải phô trương, lộ bày rằng mình là nhất hạng không ai sánh kịp. Loại người như thế sẽ không thể tồn tại trong Phật Giáo, sớm tối gì cũng bị thất bại thôi. Cho nên tôi thường nói với quý vị, trong Phật Giáo muốn tạo lập công đức, nhất định là phải học tập thái độ của các vị cổ nhân đức lớn xưa nay: không tranh, không cầu, không tham, không ích kỷ, không tự lợi, không vọng ngữ, như thế mới đúng với tư cách của người chân chánh học tập Phật Pháp.

Nếu không, dù quý vị có giảng hay đến mấy đi nữa, cũng không được chút ích lợi nào. Quý vị dối người chỉ có thể dối được một lúc nào đó, chứ không thể dối gạt lâu dài được. Cho nên nói: Đường dài biết sức ngựa, lâu ngày biết lòng người. Tu đạo là tu cái gì? Thì là chú trọng về đức hạnh của chính mình đó.

Giảng ngày 18 tháng 10 năm 1986

Đệ Nhất Niệm Là Gì?

Đệ tử hỏi: - Thưa cái gì là niệm thứ nhất?

Hòa Thượng đáp: - Tức là một niệm bản lai, không cần suy nghĩ, không dùng đến tâm, ý, thức mà hiểu rõ ràng. Phàm những cái suy tưởng đều là của nhân tâm con người, chứ không phải là Đạo tâm. Đệ nhất niệm là đệ nhất nghĩa đế, chứ không rơi vào đệ nhị hay đệ tam.

Đệ tử hỏi: - Bình thường hễ chúng ta thấy món ăn ngon, niệm thứ nhất là nghĩ đến ăn nó; hoặc thấy đồ vật đẹp, chúng ta lập tức nghĩ đến muốn có nó. Chẳng lẽ đó cũng là đệ nhất nghĩa đế sao?

Hòa Thượng đáp: - Không phải! Quý vị chớ có sai lầm, gọi là Niệm thứ nhất vì đó là khai bổn kiến tri, là từ cái chân tâm của chúng ta bộc lộ ra, là Bổn Lai Diện Mục. Còn ý niệm tham ăn, ham đẹp thuộc về vọng tâm, tham tâm, chứ không phải là chân tâm. Ví như chúng ta ở đây nghiên cứu chân lý, phương diện đó thuộc về dương. Còn tâm tham ăn, ham đẹp là phương diện thuộc về âm, cho nên không thể xưng là đệ nhất nghĩa đế. Tâm cần phải theo chiều hướng chân lý, quang minh, vậy mới tính kể. Then chốt là ở chỗ thượng đạt thăng tiến hay hạ lưu suy đồi. Nên biết rằng con người đọa lạc xuống địa ngục cũng bởi cái niệm ban đầu trước nhất, nhưng niệm đó là thuộc về tà, thuộc về âm, thuộc về hạ lưu, do đó nó mới có thể dần dần đẩy ta từng bước xuống địa ngục. Bởi vậy chúng ta phải phân biệt rõ ràng về những vấn đề cơ bản, chớ đâu thể nào bàn luận một cách hỗn độn chung chung.

Đệ tử hỏi: - Đã có người hỏi rằng: “Đạo Phật bảo là: Thân người khó được, một khi mất thân người, muôn kiếp chẳng phục hồi.” Vậy tại sao hiện nay nhân số trên thế giới lại gia tăng một cách mạnh mẽ? Rõ ràng là số người sinh ra nhiều hơn so với số người tử vong, vậy đạo Phật giải thích thế nào về điều nầy?

Hòa Thượng đáp: - Hiện nay tỷ lệ nhân khẩu sinh sôi nẩy nở tuy cao, nhưng quý vị làm sao biết được số tử vong của chúng sanh là không nhiều hơn số người sanh tồn? Tổng số nầy không cách gì đếm chính xác cho được, mà cũng không thể lấy khoa học để chứng minh. Điều đó chỉ có thể lấy thí dụ mà nói thôi. Lúc Phật tại thế, có lần Ngài hốt nắm đất rồi nói: Được thân người như đất trong bàn tay, mất thân người như đất ở đại địa nầy. Số người sanh tồn trên thế gian nầy tựa hồ như vô lượng vô biên, nhưng quý vị làm sao biết được số mất thân người không vượt hơn gấp bội số được sanh ra.

Đệ tử hỏi: - Hiện nay, một quả bom nguyên tử bộc nổ là có thể làm chết hàng muôn vạn người. Vậy rốt cuộc thì có cách nào để thống kê được số người chết là bao nhiêu không?

Hòa Thượng đáp: - Trước đây số người tử vong cũng không nhiều như ngày nay. Bây giờ chết về tai nạn gió lửa, tai nạn xe cộ, phi cơ, chiến tranh và bom đạn cũng không cách gì thống kê cho được. Hơn nữa, những người chết đó, sau khi mất thân người rồi, rất có thể là họ sẽ không làm người trở lại. Hoặc giả là họ tái sanh làm kiến, muỗi, hay làm những con thú dữ. Số lượng nầy khoa học làm sao đưa ra để làm chứng cớ? Cha mẹ sanh con ra, nhưng bỗng nhiên sao đứa bé liền có tri giác? Đây là vấn đề tối căn bản, nhưng người phàm lại sơ ý bỏ qua, không hề nghiên cứu đến. Tuy nói rằng nhân số hiện nay gia tăng dữ dội, nhưng so ra số chúng sanh mất thân người thì nhiều hơn lúc trước. Ngày xưa đâu có nhiều kiến, muỗi và những loại trùng độc hại như vầy. Làm sao quý vị biết những chúng sanh thuộc loài thấp sanh, hóa sanh hoặc noãn sanh đã không phải là từ người mà biến dạng thành như thế?

Sau khi con người đã mất thân thì tánh linh sẽ tiêu tán. Linh hồn của một người có thể hóa thành biết bao loài động vật, thậm chí là hóa thành tám vạn bốn ngàn con muỗi. Bởi vì trí huệ của người đó đã bị phân tán đi, cho nên mới biến thành ngu si đần độn. Nếu muốn khôi phục trở lại thân người, tức là chúng phải được hóa luyện lại trong “công xưởng hóa học,” như vậy chắc có lẽ cần phải trải qua một thời gian dài đăng đẳng.

Lại còn một điểm nữa, người kết hôn nhiều lần, sau khi chết linh hồn họ bị phân cắt thành nhiều mảnh. Ví dụ như một người nữ kết hôn bao nhiêu lần với người nam, đến khi chết sẽ có cưa điện cắt linh hồn cô ấy thành bấy nhiêu mảnh, để chia cho bấy nhiêu người đàn ông đó. Một người con trai nếu kết hôn với nhiều cô gái, quả báo cũng giống như thế. Ngoài ra còn một vấn đề lớn nữa là phá thai. Phá thai là làm mất đi một thân người. Hiện nay số tử vong chết về phá thai so với người sống còn nhiều hơn. Còn như chúng sanh vô tình thì có thể khôi phục linh tánh được không? Có thể chứ! Nếu họ gặp người thuyết pháp cho họ một cách thích đáng như:

“Sanh công thuyết pháp,

Ngoan thạch điểm đầu,”

Nghĩa là Hòa Thượng Sanh thuyết pháp, sỏi đá cũng gật đầu. Tức là họ cũng có thể hồi phục lại linh tánh, nhưng phải gặp được Thánh nhân hay La-hán mới có cơ duyên như thế.

Giảng ngày 10 tháng 11 năm 1986



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567