Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

QUYỂN NĂM

21/05/201313:51(Xem: 8409)
QUYỂN NĂM


TỔNG TẬP

VĂN HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Lê Mạnh Thát

---o0o---

Tập I

=================

Chương III 

QUYỂN NĂM

NHẪN NHỤC VÔ BỜ

Nhẫn nhục vô bờ là thế nào? Bồ tát nghĩ sâu: "Thần thức chúng sinh vì si tự ngăn, cống cao tự đại, thường muốn hơn người, quan tước, đất nước, của đẹp sáu tình, tự mình chuyên muốn. Nếu thấy người có, kẻ ngu tham ganh, tham ganh bên trong, sận giận bên ngoài, làm không biết dừng, kẻ ấy điên say, mãi sống mù tối, luân chuyển năm đường, núi Thái thiêu đốt, ngạ quỉ súc sinh, khổ chất vô lượng. Bồ tát thấy vậy tỉnh thức, buồn bã than rằng: "Chúng sinh sở dĩ mất nước hư nhà, nguy thân diệt tộc, sống mắc nạn ấy, chết tội ba đường, đều do không hay giữ nhân làm từ, khiến phải như thế. Bồ tát hiểu rõ, tự thề: "Ta thà chịu nước sôi lửa bỏng, tàn khốc, băm thân làm mắm đau khổ, chứ không sân giận gây độc hại cho chúng sinh. Phàm nhẫn điều không thể nhẫn, là gốc của muôn phước. Từ khi hiểu biết như vậy về sau, đời đời thường làm nhân từ. Chúng sinh có mắng chửi, đánh đập mình, đoạt của báu, vợ con đất nước, làm nguy thân hại mạng, Bồ tát liền dùng cái phúc của sức nhẫn nhục chư Phật mà trừ diệt độc sân giận, từ bi thương xót tìm đến cứu giúp, đến khi khỏi tội, thì mới vui vẻ".

42 

Xưa có Bồ tát, thấy đời bẩn thỉu, vua tôi vô đạo, bỏ chính theo tà, khó đem đạo dạy, nên mới che khôn dấu bóng, ẩn nơi gò mả, tập hạnh nhẫn nhục. 

Gò mả có con bò con, Bồ tát thường lấy phân, nước tiểu nó để ăn uống, kéo dài mạng sống. Trần truồng suy tư, nhan sắc xấu đen, mọi người đều ghét. Quốc nhân thấy vậy bèn kháo nhau rằng: "Chỗ ấy có quỉ". Ai thấy cũng chửi rủa liệng ném đất đá. Bồ tát không mảy may sân giận, lòng từ thương xót nói: "Khổ thay bọn nầy! Không hiểu kinh Phật nên làm ác như vậy". Bèn thề "Nếu khi ta thành đức Như Lai Vô Sở Trước Chính Nhân Giác Đạo nhất định sẽ độ họ". 

Hạnh pháp nhẫn vượt bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy. 

43 

Xưa có Bồ tát tên Thiểm, thường mang lòng từ rộng lớn thấm khắp chúng sinh, thương xót lũ ngu không thấy ba báu, bèn đem cha mẹ vào ở núi đầm. 

Cha mẹ tuổi già, đôi mắt hết sáng, Thiểm lấy làm buồn, nói đến rơi lệ. Đêm thường ba lần dậy, thăm hỏi hàn huyên. Nết hạnh chí hiếu, tiếng thơm bay khắp. Thần đất, rồng biển, cả nước đều biết. Thiểm thờ Phật, giữ mười lành, không giết chúng sinh, không nhặt của rơi ngoài đường, giữ trinh không vợ, các họa về thân đều dứt. Hai lưỡi, chửi mắng, nói dối, nói thêu dệt, khen chê tà vạy, lỗi miệng đều diệt. Những uế trong lòng, tham ăn ganh giận, tâm bẩn đều diệt. Tin làm lành có phúc, làm ác chịu họa, lấy tranh làm nhà, rơm rác làm chiếu, thanh tịnh vô dục, chí như vàng trời. 

Núi có con suối, giữa dòng sen mọc, các trái ngon ngọt ra quanh trên bờ. Sáng dậy, hái quả, chưa từng thử trước. Đức nhân chiếu xa, cầm thú nương nhờ. 

Một lần cha mẹ khát, Thiểm đi lấy nước. Vua nước Ca Di vào núi săn bắn, lấp tên giương cung, bắn vào nai núi, nhằm trúng ngực Thiểm. Tên độc thấm vào, đau nhức khôn tả, ngoái nhìn hai bên, khóc lóc nói lớn: "Ai lấy một mũi tên mà giết ba đạo sĩ? Cha mẹ tôi tuổi già lại bị mù lòa, một buổi không có tôi, thì ắt phải chết". Rồi cất tiếng than: "Con voi vì ngà, tê giác vì sừng, chim trả vì lông. Còn tôi không có ngà, sừng, hay bộ lông rực rỡ, sao lại phải chết như vậy?" Vua nghe tiếng than, xuống ngựa hỏi: "Ngươi ở núi sâu ư?" Thiểm đáp: "Tôi đem cha mẹ vào ở núi này, bỏ hết dơ, học lên chí đạo". Vua nghe Thiểm nói, nghẹn ngào rơi lệ, rất đau xót nói: "Ta vì bất nhân, giết oan mạng vật lại giết người chí hiếu”. Rồi cất tiếng than: "Sao lại thế này?” Quần thần lớn nhỏ, không ai là không nghẹn ngào. Vua lại nói rằng: "Ta đem cả nước cứu mạng ngươi đây. Hãy chỉ cha mẹ ngươi ở đâu, ta muốn tạ tội". Thiểm nói: "Hãy theo đường mòn cách đây không xa, có một lều tranh, song thân ở đó, vì ta thưa lại, từ nay vĩnh biệt, mong sống hết năm thừa, xin cẩn trọng đừng luyến tiếc". Nói xong lại khóc, lặng lẽ mà chết. Vua cùng quân sĩ lại thêm thổn thức, tìm đường Thiểm chỉ, đến chỗ cha mẹ của Thiểm. Vua và tùy tùng đi đông, cây cỏ xào xạt thành tiếng. Cha mẹ Thiểm nghe, nghi có người lạ hỏi: "Hành giả là người nào vậy?" Vua nói: "Ta là vua nước Ca Di". Cha mẹ Thiểm nói: "Vua đến đây tốt quá, nhà chỉ có chiếu cỏ, xin ngài nghỉ mát và quả ngọt xin dùng, con tôi đang đi lấy nước, nó sẽ về ngay bây giờ". Vua thấy cha mẹ Thiểm đem lòng thương đợi con, lại càng nghẹn ngào. Vua bảo cha mẹ Thiểm: "Ta thấy hai đạo sĩ, lấy lòng thương đợi con, lòng ta đau xót vô lượng, con của đạo sĩ là Thiểm ta bắn chết rồi". Cha mẹ Thiểm kinh hải hỏi: "Con tôi tội gì mà giết nó? Con tôi tính nết nhân từ, đạp đất còn sợ đất đau, nó có tội gì mà vua giết nó?" Vua nói: "Người con chí hiếu, thật bậc thượng hiền. Tôi đi bắn nai, chẳng may trúng nhầm". Cha mẹ Thiểm nói: "Con tôi chết rồi, biết nương tựa ai, chắc tôi nay chết. Xin Đại vương dẫn hai thân già này, đến nơi để xác con tôi, để thấy rồi chết, hầu được chung mồ". Vua nghe lời cha mẹ Thiểm, càng đau xót thêm. Rồi, tự mình dắt cha mẹ Thiểm đến chỗ tử thi. Người cha lấy đầu áp trên đầu gối con, còn người mẹ ôm lấy chân, hôn chân con thành tiếng, cả hai lấy tay rờ trên vết tên, rồi đấm ngực đập má ngửa đầu kêu: "Thần trời thần đất ơi! Thần cây, thần suối ơi! Con tôi là Thiểm, thờ Phật tin pháp, tôn trọng người hiền, hiếu với mẹ cha, chỉ ôm lòng nhân rộng lớn, thấm đến cỏ cây. Lại nói: "Nếu con xét thật lòng thờ Phật, chí hiếu vang động tới trời, thì tên phải bật ra, nọc đọc tiêu hết, con được sống lại, làm nốt hạnh chí hiếu. Còn nếu hạnh con không thế và lời cha mẹ không thật thì xin sẽ chết thành ra tro đất". 

Trời Đế Thích và Tứ thiên vương, Thần đất, rồng biển, nghe tiếng khóc than của cha mẹ Thiểm thì tin lời nói ấy, không ai là không buồn bã. Đế Thích hóa thân xuống, gọi cha mẹ Thiểm bảo: "Người con chí hiếu ấy ta có thể làm sống được". Bèn lấy thuốc trời đổ vào miệng Thiểm, bỗng Thiểm sống lại. Thiểm và cha mẹ cùng vua quan buồn vui lẫn lộn, tất cả bật khóc. Vua nói: "Do đức thờ Phật, chí hiếu, nên mới được vậy", rồi ra lệnh cho quần thần: "Từ nay về sau nhân dân cả nước đều phải thờ Phật và mười đức lành, tu theo hạnh chí hiếu của Thiểm. Cả nước làm theo, sau đó nước giàu dân mạnh, bèn được thái bình. 

Phật bảo các tỳ kheo: "Ta đời đời thờ hạnh chí hiếu của chư Phật, đức cao phúc lớn nên thành bậc trời trong các trời, riêng đi trong ba cõi. Thiểm bấy giờ là ta, còn quốc vương là A Nan. Cha Thiểm nay là cha ta, còn mẹ Thiểm nay là Xá Diệu mẹ ta, trời Đế Thích là Di Lặc. 

Hạnh pháp nhẫn vượt bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy.

44 

Xưa có Bồ tát, bấy giờ là phạm chí, tên Sàn Đề Hòa, ở tại núi đầm, ngồi thiền dưới cây, lấy trái rừng nước suối làm thức ăn uống, gột hết lòng dơ, ở chỗ vắng lặng, sáu thông rộng rõ, đều được biết hết. Trí tuệ tiếng tăm thơm bay, nghe khắp tám phương trên dưới. Mười phương chư Phật, Duyên giác, A la hán và thánh chúng không ai là không khen ngợi. Phạm Vương, Đế Thích, Tứ thiên vương, Rồng biển, thần đất, sớm tối chầu chực, chắp tay cúi đầu, vâng lời theo cách, ủng hộ nước ấy, mưa gió đúng thời, ngũ cốc được mùa, độc tiêu nạn hết, vua tôi giàu thịnh. 

Vua có tên Ca Lê, vào núi săn bắn, đuổi theo bầy nai, theo dấu chân chúng, đi qua trước mặt Bồ tát. Vua hỏi đạo sĩ: "Dấu thú qua đây, chúng về hướng nào?" Bồ tát lặng nghĩ: "Chúng sinh rối loạn, chỉ vì thân mạng, tham sống sợ chết, lòng ta nào khác. Nếu ta bảo vua thì ngược sát bất nhân, tội giống như vua. Nếu nói không thấy thì mang tội dối vua". Trong lòng bẽn lẽn, cúi đầu không nói, vua liền nổi giận nói: "Kẻ ăn mày này phải chết, ta hiện là đế vương, cả nước tôn trọng, mà hỏi chẳng trả lời đúng lúc, lại giả bộ cúi đầu ư?". Nước đó cho khảy móng tay là nói không. Bồ tát buồn bã, khảy móng tay nói: "Không biết". Bèn bày tỏ với vua là không thấy. Vua nói: "Dấu thú qua đây mà nói không thấy, thế vua tự do không thể giết ngươi sao?" Bồ tát nói: "Tôi nghe vua đây". Vua hỏi: "Ngươi là ai?" Đáp: "Tôi là người nhẫn nhục". Vua giận rút kiếm, chém cánh tay phải. Bồ tát nghĩ: "Chí ta chuộng đạo, không tranh với đời, mà vua này còn chém ta, huống gì là dân chúng ư. Nguyện ta thành Phật, tất độ cho người này trước, không để chúng sinh, bắt chước làm ác". Vua lại hỏi: "Ông là người nào vậy?" Bồ tát đáp: "Tôi là người nhẫn nhục". Vua lại chặt cánh tay trái. Mỗi hỏi là mỗi chặt, chặt chân, cắt tai, cắt mũi, máu chảy như suối, đau đớn vô cùng. Trời đất vì thế chấn Động, mặt trời không sáng. Tứ thiên vương đều đến nơi, đồng thanh giận dữ nói: "Vua này tàn ác không ai sánh bằng", liền gọi đạo sĩ bảo: "Đừng vì vậy mà vấy lòng, chúng tôi sẽ giết vua này và vợ con nó, tóm diệt cả nước để nêu rõ cái ác của nó". Đạo sĩ đáp: "Sao lại nói thế?" Tai ương này do ta đời trước không vâng lời Phật dạy, làm độc hại ông ấy. Làm ác, họa theo như bóng đuổi hình vậy. Xưa gieo ít mà nay gặt nhiều. Nếu ta thuận theo ý các vị thì họa như đất trời, nhiều kiếp chịu tội, há có thể hết được sao?" 

Nhân dân thấy biến, chạy đến thú tội, đồng thanh nói: "Đạo sĩ ở đây, ơn lớn khắp nước, cầu khỏi tai ương, trừ đươc dịch họa, mà ông vua quá ngu si này không biết phải trái, không hiểu tới lui, làm ác với bậc thánh, nguyện xin Thánh nhân đừng đem chúng tôi tâu lên Thượng đế". Bồ tát đáp: "Vua đem điều ác không tội làm khốn thân ta, lòng ta vẫn thương, như mẹ hiền thương con đỏ vậy, chứ dân chúng có lỗi gì mà ta lại oán sao. Nếu còn ngờ vực thì các ngươi cầm cánh tay ta đã bị chặt đem đây". Dân chúng cầm lấy, dòng sữa vọt ra. Bồ tát nói: "Vì ta có lòng thương của mẹ hiền, nên nay bằng chứng ấy hiện ngay đây". Dân chúng thấy bằng chứng rộng lớn, không ai là không vâng theo lời dạy, vui vẻ ra về. 

Bồ tát có em, cũng hiểu nguồn đạo, ở ngọn núi khác, dùng thiên nhãn nhìn khắp, thấy trời thần quỉ rồng bàn: "Vua ác không ai là không căm giận". Sợ anh có lòng tổn đức, bèn dùng thần túc đến chỗ người anh hỏi: "Những vết thương ấy có đau đớn không?" Bồ tát đáp: "Không! Nếu em muốn biết bằng chứng của ta thì hãy đem tay, chân, tai, mũi bị cắt lắp vào chỗ cũ, nếu liền lại thì là bằng chứng của ta". 

Người em đem nối, nó liền như cũ. Anh nói: "Bằng chứng lòng thương rộng lớn của ta nay đã rõ". Trời thần, thần đất không ai là không vui vẻ, cúi đầu ca ngợi, cùng nhau khuyên dạy, chí hướng đến chỗ hạnh cao, thọ giới rồi lui. Từ đó về sau, trời trăng không sáng, năm sao mất chừng, yêu quái quấy nhiễu, trời đất khô hạn, gạo lúa hiếm quí, dân chúng khốn cùng, oán hận vua ấy. 

Đức Phật bảo các tỳ kheo: "Sàn Đề Hòa bấy giờ là thân ta, người em là Di Lặc, ông vua nay là La hán Câu Lân". 

Hạnh pháp nhẫn vô bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy. 

45 

Xưa có Bồ tát sinh trong nhà nghèo, nhà nghèo không nuôi, lấy tã quấn lại, đêm đến không người, lặng lẽ để ở ngã tư đường, cùng một nghìn tiền để trên đầu bé. 

Tục nước hôm ấy là ngày lành, cả nước tổ chức dã hội. Quân tử tiểu nhân, mỗi người theo nhóm, chưng diện vui chơi. Phạm chí thấy cuộc chơi ca ngợi người dự hội: "Tốt thay những người dự hội hôm nay, riêng có kẻ như lúa canh ròng trắng không có lẫn lộn, mùi vị thơm tho. Nếu hôm nay ai sinh con trai hay gái thì vừa quí lại hiền". Trong đám có một nhà giàu cô độc không con nối dõi, nghe vậy thầm vui, sai người đi bốn phương tìm đứa con nào bị đem bỏ. Sứ giả hỏi người đi đường: "Thấy có đứa con nào đem bỏ không?" Người đi dường nói: "Có bà mẹ góa nhặt được rồi". Sứ giả tìm đến, biết được chỗ ở nói: "Tôi nhà giàu, mà vô tự, nếu bà đem đứa bé ấy cho tôi, thì có thể được nhiều của báu". Bà mẹ trả lời: "Được". Họ để tiền lại rồi, đem đứa bé theo. Bà còn muốn đòi thêm hàng hóa và liền được như ý. 

Nuôi bé mấy tháng, thì người vợ mang thai nói: "Ta vì vô tự nên nuôi trẻ khác dòng. Nay trời ban phúc cho ta, thì trẻ này dùng làm gì". Bèn lấy tả gói lại, đêm đem bỏ vào hố, bầy dê nhà hằng ngày đến cho bé bú. Người chăn dê tìm xem, thấy bé, liền than: "Vì sao Thượng đế để rơi con mình ở đây?" bèn đem về nuôi, lấy sữa dê cho uống. Người nhà giàu biết được vặn hỏi: "Vì sao ngươi lấy trộm sữa?" Người chăn dê trả lời: "Tôi nhặt được đưa con rơi của Trời nên lấy sữa dê nuôi nó". Người nhà giàu buồn bã hối hận đem về nuôi, được mấy tháng thì người vợ sinh đứa con trai. Niệm ác lại sinh, lại làm như trước, lấy tả gói lại, đem bé đặt vào trong vết bánh xe. Lòng bé nhớ Phật và ba ngôi báu, thương đến cha mẹ. Sáng sớm hôm sau mấy trăm xe của lái buôn đi ngang qua đó, trâu tới không chịu bước lên. Lái buôn xuống xem nguyên do, thấy đứa bé cả kinh nói: "Con vua Trời cớ sao lại ở đây?" bèn ẳm vào xe, trâu bước lên như nước chảy. 

Đi được hai mươi dặm, thì cho trâu nghỉ. Bên quán có bà mẹ côi đến xin, lái buôn nói: "Cho tôi đứa bé để giúp thân già nghèo". Lái buôn bồng cho. Người mẹ nuôi chưa bao lâu, nhà giàu lại nghe, buồn thương nói: "Ta bất nhân, giết hại đức trời vậy sao?" Rồi lại đem của báu đến xin đứa bé về nhà, nghẹn ngào tự trách, bình đẳng nuôi hai đứa bé. Trong khoảng mấy năm, thấy trí bé biến hóa dọc ngang kỳ lạ, niệm ác lại sinh, nghĩ: "Nó thông minh quá đỗi, con ta chắc thua, phải trừ khử". Lại quấn tả đem lên núi, bỏ trong bụi tre, không cho ăn tất phải chết. Đứa bé dấy lòng từ nghĩ: "Sau này thành Phật, ắt cứu các khổ". 

Gần núi có khe suối, đứa bé tự sức mình lay, từ bụi tre rớt xuống, lần hồi đi đến bờ suối. Cách suối hai mươi dặm, có người vác tử thi và đông đảo người đi kiếm củi, xa thấy đứa bé, đến xem rồi than: "Thượng đế đánh rơi con mình ư?" Rồi bồng về nhà nuôi. Nhà giàu lại nghe, hối hận như trước, lại đem của báu nổi tiếng xin về, thương xót khóc lóc. Lại dạy viết, đếm, trông trời xem đất, kỹ thuật các đạo, trông qua liền giỏi. Bé bẩm tính nhân hiếu, nói nhằm dẫn dạy. Người trong nước khen là thánh, Nho sĩ tụ về. Người cha lại sinh niệm dữ, tính ác càng nặng.

Trước nhà, cách thành bảy dặm có một thợ rèn. Người nhà giàu muốn giết đứa bé, viết thư sai thợ rèn rằng: "Xưa tôi nuôi đứa bé này. Từ khi nó vào nhà, bệnh tật xảy ra luôn, của hao, vật chết, thầy bói xem nói: "Đứa bé này gây họa đó. Vậy thu đến thì mau bắt nó quăng vào lửa". Rồi giả bộ bảo đứa bé rằng: "Ta nay xế bóng, lại bị bệnh nặng, vậy con đến chỗ thợ rèn, kê rõ tiền của báu vật. Đó là của trọn đời của con". Đứa bé vâng lời ra đi. Ở trong cửa thành, nó thấy đứa em cùng bọn trẻ chơi trò bắn bi, đứa em nói: "Anh đến, thật may cho em. Anh hãy vì em đánh bại tụi nó". Người anh nói: "Cha sai anh phải đi". Đứa em nói: "Để em đi cho". Bèn giật bức thư, đi đến chỗ thợ rèn. Thợ rèn theo thư, bắt đứa em quăng vào lò lửa. Người cha lòng bồn chồn, lo sợ sai người đi tìm con. Sứ giả thấy đứa anh hỏi: "Em đi đâu rồi?" Đứa anh cứ như thật trả lời và trở về trình bày. Người cha chạy ngựa đuổi theo con, nhưng nó đã ra tro rồi. Người cha vật mình kêu trời, tức khí uất nghẹn thành ra bệnh nặng. Niệm độc lại sinh, nói: "Ta giờ vô tự thì chẳng dùng đứa bé ấy làm gì, chỉ muốn giết đi". 

Người cha có một nhà kho cách xa kinh đô nghìn dặm, bèn bảo đứa trẻ ấy: "Bọn kia phá tán gia tài ta, vậy con đến đó tính xem, nay ta cho con nhà kho đó, có bức thư giấu trong bao sáp ong, con hãy mau ra đi". Trong thư lén dặn: "Nếu đứa trẻ này đến, mau lấy đá cột vào nó, rồi dìm xuống vực sâu". Đứa bé nhận lệnh, cúi đầu chào, cưỡi ngựa nhẹ nhàng ra đi. Giữa đường gặp một phạm chí ở xa, cảm phục người cha, thường nhiều lần đưa thư qua lại hỏi nhau. Phạm chí có người con gái. Cô gái vừa hiền lành lại thông minh, biết rõ cát hung, coi được thiên văn. Cậu đi đến chỗ ở Phạm chí, nghĩ: "Cha ta là chỗ thân tình với phạm chí, chính nghỉ tại đây". Bèn gọi người đi theo nói: "Nay ta muốn qua chào hỏi, có nên không?" Kẻ tùy tùng nói: "Tốt!". Liền qua chào hỏi. Phạm chí vui vẻ nói: "Con anh ta đến kìa! Bèn ra lệnh học sĩ, nho sinh và bậc kỳ đức bốn phương họp lại, mở yến tiệc vui chơi, cùng bàn luận những điểm nghi ngờ", không ai là không hớn hở. Trọn ngày suốt đêm ai cũng mệt ngủ. Cô gái lén nhìn người con trai, thấy lưng đeo túi đựng bức thư. Cô lặng lẽ lấy ra, về xem lời thư ấy, cô buồn bã than: "Yêu quỷ nào đây mà giết hại người thân đến như thế này? Cô bé xé thư rồi viết lại bức khác. Lời thư rằng: "Tôi tuổi xế chiều, bệnh nặng ngày một tăng, phạm chí kia là bạn thân của tôi, có người con gái đã hiền lại thông minh, nay có thể tính cho thành gia thất. Hãy sắm đủ hết châu báu, vải vóc, đến hỏi, lo đủ lễ hỏi, lễ cưới, ngày cưới thì căn cứ lời dặn thư này". Viết thư xong, mở phong bì, dán lại như cũ. 

Sớm hôm sau, cậu lên đường. Phạm chí và các nhà Nho không ai là không đi theo khen ngợi. Người ở nhà kho nhận thư, vâng lệnh sắm đủ lễ vật đến nhà phạm chí. Vợ chồng Phạm chí bàn nhau: "Phàm việc hôn nhân, ban đầu phải chọn người đi hỏi tên, xem tuổi. Nếu bên kia họ sắm đủ lễ vật thì ta mới hứa. Nay đàng trai không có mai mối mà lại mang sính lễ đến, há chẳng phải là họ khinh mạn ta sao?" Rồi trở vào nằm nghĩ: "Nam nữ làm bạn với nhau từ xưa đã thế. Trai hiền, gái trinh thật cũng khó gặp". Bèn nhận lễ và họp cả họ hàng lại. Chín họ đều khen: "Lễ sang truyền đời".

Lễ cưới đã xong, người ở nhà kho về báo nhà giàu. Ông ấy nghe rồi bệnh uất rất nặng. Cậu nghe cha bệnh, nghẹn ngào nói: "Mạng này khó giữ, như huyễn chẳng thật". Phạm chí muốn chọn ngày lành mới cho trở về. Bồ tát lòng đau, không nghe theo lời. Đem vợ trở về, lên nhà cúi đầu lạy cha. Vợ theo lạy hai lạy đã khóc, bước lên ba bước lại lạy, xưng tên: "Con là. . . vợ của con trai cha. Cha mẹ cưới con là... phải phụng thờ tổ tiên, làm kẻ nâng khăn sửa túi, trọn lễ hiếu đạo. Nguyện cho đại nhân hết bệnh được phúc, giữ mãi tuổi thọ không hết, cho con thỏa lòng, có được cái đức của người dâu hiếu". Người nhà giàu phát phẫn, uất nghẹn mà chết. Bồ tát khâm liệm tống táng một cách thương đau ái mộ. Cả nước đều khen là hiếu. Tang xong, bèn tu hành, tiếng thơm bay khắp mười phương. 

Đức Phật bảo các tỳ kheo: "Đồng tử ấy là thân ta, người vợ là Câu Di, còn nhà giàu là Điều Đạt". 

Hạnh pháp nhẫn vô bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy. 

46 

Xưa có Bồ tát làm đại quốc vương, thường đem lòng tứ đẳng, nuôi giúp chúng sinh, tiếng đồn xa gần, không ai là không khen ngợi. 

Người cậu cũng làm vua ở một nước khác, tính tham, không biết hổ thẹn, lấy hung ác làm sức mạnh, nhiều kẻ sĩ đều than trách. Bồ tát giữ lòng nhân huệ của trời đất. Còn người cậu thì dối trá, vu khống chê bai, tạo mối hiềm khích, khởi binh muốn chiếm nước của Bồ tát. Bồ tát cùng các quan bàn, thà làm người nhân như trời mà hèn, chứ không làm giống sài lang mà sang. Dân nói: "Thà làm súc sinh mà có đạo, chứ không làm người dân mà vô đạo". Rồi tuyển võ sĩ, dàn quân sắp đội ngũ. Quốc vương lên đài xem thấy quân tinh nhuệ dày đặc, khóc lóc rơi lệ, ràn rụa nói: "Vì ta một thân mà giết dân cả triệu mạng. Nước mất khó phục, thân người khó được, ta trốn tránh, đất nước đươc yên, không còn ai hoạn nạn?". Vua cùng nguyên phi giao nước đi mất. Người cậu vào ở trong nước, dùng chính sách tham tàn, giết người trung trinh, tiến kẻ nịnh hót. Chính trị hà khắc, dân chúng khốn cùng, oán khóc khắp nơi. Họ nhớ thương vua cũ như con hiếu nhớ cha mẹ hiền. 

Vua cùng nguyên phi ở trong rừng núi. Biển có rồng tà, thích sắc đẹp của nguyên phi, bèn hóa làm phạm chí, giả bộ chắp tay tréo chân, cúi đầu lặng yên suy nghĩ như một đạo sĩ khi ngồi thiền định. Vua thấy vui mừng, hàng ngày hái quả cúng dường, Rồng rình lúc vua đi, đến bắt trộm nguyên phi, đem về biển ở. Đường do lối mòn kẹp giữa hai núi. Núi có chim lớn, xòe cánh bít đường, cùng rồng đánh nhau. Rồng làm sấm sét, đánh chim rơi mất cánh phải, rồi đem nguyên phi về biển. 

Vua hái trái về không thấy nguyên phi, buồn bã nghĩ: "Ta trước làm quấy, tội vạ dồn đến vậy sao?" Bèn cầm cung mang tên, đi qua các núi tìm kiếm nguyên phi. Thấy có dòng thác, liền tìm tận nguồn, thấy một khỉ lớn đang rất buồn thương. Vua buồn rầu hỏi: "Ngươi sao buồn vậy?" Khỉ đáp: "Tôi cùng người cậu hợp nhau làm vua, cậu ỷ thế mạnh, đoạt hết đàn, tôi chỉ kêu than, chứ biết kiện ai. Còn ông vì sao mà đến chỗ núi non hiểm trở này? Bồ tát đáp: "Ta với ngươi có nỗi buồn như nhau, ta mất nguyên phi, chưa biết đi đâu". Khỉ nói: "Ông giúp tôi đánh, phục hồi đàn tôi thì tôi sẽ tìm nguyên phi cho ông, cuối cùng chắc là kiếm được". Vua đồng ý nói: "Được". 

Hôm sau, khỉ cùng cậu nó đánh nhau. Vua lấy cung lắp tên, xoạc chân giương tay lấy thế giương cung. Cậu khỉ từ xa run sợ, trốn chạy tán loạn. Vua khỉ, đàn về, ra lệnh cho đàn: "Nguyên phi vua người, lạc ở núi này, các ngươi hãy đi khắp nơi mà tìm". Đàn khỉ mỗi mỗi ra đi. Gặp chim đau cánh. Chim hỏi: "Các người tìm gì?" Đáp: "Vua người mất nguyên phi, chúng tôi đi kiếm". Chim nói: "Rồng nó bắt trộm rồi. Sức tôi không bằng nó, nay nó đang ở trong biển, trên cồn lớn". Nói xong chim chết. Vua, khỉ dẫn cả đoàn theo đường mòn đến biển. Đang lo không có gì để qua biển thì trời Đế Thích bèn hóa làm khỉ, thân hình ghẻ lác đến, nói: "Nay quân sĩ nhiều, quá hơn cát biển thì lo gì không qua được cồn bên kia. Bây giờ mỗi con hãy vác đá lấp biển, có thể làm thành núi cao, thì không chỉ đến cồn kia mà thôi". Vua khỉ bèn phong nó làm giám chúng làm theo mưu nó, vác đá thành công. Cả đàn đi qua được, vây cồn lớp lớp. Rồng làm mù độc, đàn khỉ đều bịnh, không con nào không lăn xuống đất. Hai vua buồn bã, khỉ nhỏ lại nói: "Tôi làm cả đàn lành bệnh, khỏi nhọc vua lo". Bèn lấy thuốc trời đổ vào trong mũi, cả đàn hắt hơi đứng lên, sức mạnh hơn trước". Rồng biển nổi gió đẩy mây che mặt trời, xẹt chớp lòa biển, sấm sét ầm ầm rung trời chuyển đất. Khỉ nhỏ lại nói: "Vua người bắn giỏi, hễ chỗ có chớp, đó là con rồng, hãy bắn mũi tên để trừ hung bạo, đem phúc cho dân, thánh hiền không oán". Tia xẹt chớp lòa, vua bèn phóng tên, trúng ngay ngực rồng. Rồng bị bắn chết, đàn khỉ khen hay. Khỉ nhỏ rứt khóa cửa rồng, mở cửa đem nguyên phi ra, trời quỉ đều vui. Hai vua cùng về núi mình, cùng nhau từ tạ, nhún mình nhường nhau. Gặp lúc vua cậu chết, không con nối dõi, dân chúng chạy khắp, tìm kiếm vua cũ. Nơi chỗ núi non hiểm trở, vua tôi gặp nhau, thương khóc rồi về, được luôn nước cậu, triệu dân vui mừng chúc thọ vạn tuế. 

Vua đại xá, cai trị khoan hồng. Lòng dân hớn hở, vừa đi vừa mỉm cười. Vua nói: "Vợ lìa chỗ chồng, đi riêng một đêm, người ta cũng nghi, huống là cả nửa tháng sao? Ta trả em về cho giòng họ em, việc ấy hợp với lễ xưa". Nguyên phi nói: "Tôi tuy ở trong hang thú dơ bẩn, nhưng cũng như hoa sen ở trong bùn lầy. Nếu lời tôi có chứng, thì xin đất nứt ra. Nói xong, đất nứt. Nguyên phi nói: "Chứng ta đã hiện". Vua nói: "Lành thay! Trinh khiết là hạnh sa môn". 

Từ ấy trong nước, người buôn nhường lời, kẻ sĩ từ quan, sang hay nhịn hèn, mạnh không hiếp yếu, ấy là do vua cảm hóa. Dâm phụ đổi nết, chịu nguy mình để giữ trinh, kẻ dối trá chuộng trung tín, đứa xảo ngụy giữ chân thật, đó là do nguyên phi cảm hóa. 

Đức Phật bảo các tỳ kheo: "Quốc vương bấy giờ là thân ta, nguyên phi là Câu Di, cậu là Điều Đạt, trời Đế Thích là Di Lặc. 

Hạnh pháp nhẫn vô bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy.

47 

Xưa có Bồ tát làm thân con vượn, sức coi bầy nhỏ, minh triết hơn người, thường đem lòng thương cứu giúp chúng sinh. Ở tại núi sâu, leo cây hái trái, thấy trong hang núi, có người rớt xuống, không thể lên được, khóc la mấy ngày kêu trời xin sống. Vượn nghe tiếng khóc, động lòng rơi lệ, nghĩ: "Ta thề thành Phật, chỉ vì bọn này. Nay không đem người này ra, nó ắt chết mất. Ta phải tìm đường xuống hang cõng nó ra". 

Bèn xuống hang sâu, bảo người cỡi mình rồi vịn cỏ leo lên núi, đặt xuống chỗ đất bằng, chỉ cho đường mòn, rồi nói: "Anh theo đường đó đi về. Sau khi chia tay, cẩn thận đừng làm điều ác. Vượn đem người ra quá mệt, đến chỗ trống nằm nghỉ. Người ấy nghĩ: "Ở hang đói khát, nay ra cũng vậy, có khác gì đâu. Lòng nghĩ phải giết con vượn, ăn thịt, để cứu mạng mình, cũng không phải là nên lắm sao?" Bèn lấy đá đập đầu vượn, máu phun đỏ đất. Vượn đang nằm cả kinh thức dậy, leo vội lên cây, lòng không ý giận, chỉ mến yêu thương xót, buồn kẻ mang lòng ác. Nó tự nghĩ: "Sức ta không thể độ được thì nguyện kiếp sau thường gặp chư Phật, tin nhận đạo giáo, thực thành để được độ, đời đời không có niệm ác như người này vậy". 

Đức Phật bảo các tỳ kheo: "Con vượn chính là thân ta, người ở trong hang là Điều Đạt.

Hạnh pháp nhẫn vô bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy. 

48 

Xưa có Bồ tát cùng A Nan bị tội phải làm rồng. Một con rồng nói: "Tôi với anh cùng ở trong biển, không chỗ nào là không thấy, nay có thể cùng lên đất liền đi chơi nhé?" Rồng kia đáp: "Người đất liền hay khởi lòng ác, nếu gặp chuyện bất thường, mình không thể thoát ra". Rồng nọ lại nói: "Mình hóa làm rắn nhỏ, nếu đường không người thì theo đường lớn đi chơi, gặp người thì núp, lo gì?" Thỏa thuận xong, cả hai lên bờ du ngoạn. 

Ra khỏi biển chưa bao lâu, giữa đường gặp con rắn ngậm nọc đọc. Rắn ngậm độc thấy hai rắn con, niệm ác liền sinh, ý muốn đến giết, nên nhả độc phun bọt vào hai chú. Một chú nảy ý, sắp muốn dùng oai thần, giết con rắn độc ấy. Chú kia lòng thương, chịu nhịn, can gián đừng làm, nói: "Hễ là cao sĩ thì nên tha bọn ngu, nhẫn được điều không thể nhẫn, đó chính là đại giới chân chính của Phật. Bèn nói kệ: 

Tham dục là người điên 

Nào có lòng nghĩa nhân 

Ghen ghét muốn hại Thánh 

Chỉ lặng nhẫn là yên 

Ai phi pháp chẳng tuân 

Trong lòng chẳng xót thương 

Keo ác hại bố thí 

Chỉ lặng nhẫn là yên 

Người phóng dật không giới 

Khốc hại ôm lòng giặc 

Không vâng thuận đạo đức 

Chỉ lặng nhẫn là yên 

Quên ân không đáp trả 

Giả bộ làm dối nịnh 

Ấy là rất ngu si 

Chỉ lặng nhẫn là yên 

Một chú rắn thì ca tụng đức nhẫn, nói kệ giải nghĩa, chú kia kính nghe, nên không hại rắn độc. Một chú rắn nói: "Chúng ta trở lại biển được chưa?" Rồi cùng nhau ra về, giương oai thần làm rung trời chuyển đất, kéo mây nổi mưa, biển hóa ánh rồng, người quỉ đều kinh. Con rắn độc nọ hoảng sợ, chết giấc không biết, bảy ngày không ăn. 

Đức Phật bảo các tỳ kheo: "Con rồng muốn hại con rắn độc bấy giờ là A Nan, con nói pháp nhẫn nhục là ta. Còn con rắn ngậm độc là Điều Đạt. Bồ tát ở đâu, đời đời thực hành nhẫn nhục, tuy ở trong cầm thú, vẫn không quên hạnh ấy". 

Hạnh pháp nhẫn vô bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy. 

49 

Xưa có nước tên Ma Thiên La, vua tên Nam, học thông thần minh, không chỗ tối nào là không thấy. Biết đời vô thường, nên nói: “Thân ta sẽ nát, làm phân rác cho đời, thì đất nước này làm sao giữ được?”. Bèn vứt bỏ vinh hoa khoái lạc, mặc áo pháp của đại sĩ, một bát ăn là đủ, giữ giới sa môn, ở trong núi rừng đã được ba mươi năm. Bên cây có hầm, hầm sâu ba mươi trượng. Bây giờ có một thợ săn, rượt đuổi theo nai mà rơi vào hầm. Cùng lúc có rắn và quạ, vì sợ cũng rớt xuống hầm. Thân thể thương tích, đều nguy khốn cả, ngửa mặt lên trời kêu khóc, tiếng nghe cô cùng. Đạo sĩ buồn thương, soi lửa thấy chúng, nước mắt ràn rụa, đi đến miệng hầm bảo: "Các ngươi đừng lo, ta sẽ cứu các ngươi khỏi nạn dữ. Liền bện dây dài thòng xuống cho họ leo lên. Cả ba người, vật hoặc ngậm hoặc nắm mà được toàn mạng. Tất cả cúi đầu lạy tạ nói: "Mạng sống chúng tôi leo lét. Đạo sĩ nhân từ rộng lớn vô lượng, khiến chúng tôi được thấy mặt trời, xin trọn đời này dâng những gì Ngài thiếu, lấy chút của mọn đáp lại ơn nặng, chẳng sánh được trong muôn một". Đạo sĩ nói: "Ta là quốc vương nước lớn, dân đông, cung báu gái đẹp hơn hết các nước, muốn gì liền đáp ứng, cầu gì mà không được. Nhưng ta cho đất nước là hang oan, cho sắc, tiếng, mùi vị, áo quần lòe loẹt, niềm tà là sáu lưỡi kiếm cắt thân ta, là sáu mũi tên bắn vào xác ta. Do sáu tà này mà luân hồi chịu khổ khốc liệt ở ba đường, khó nhẫn, khó kham, nên ta rất chán mà bỏ nước để làm sa môn. Nguyện thành Như Lai Vô Sở Trước Chính Chân Đạo Tối Chính Giác Đạo Pháp Ngự Thiên Nhân Sư, để khai hóa quần sinh, khiến về bản nguyên, há chỉ vì ba chúng ngươi mà thôi sao? Các ngươi mỗi người trở về nhà mình, gặp những người thân của các ngươi thì hãy khuyên họ qui y tam bảo, đừng trái lời Phật". Người thợ săn nói: "Tôi ở đời nhiều năm, tuy thấy Nho sĩ tích đức làm lành, há có ai như đệ tử Phật, quên mình cứu người, ở ẩn không nêu danh đâu? Nếu Đạo sĩ có cần chi, hãy đến nhà tôi, xin đem của mọn cúng dường". Quạ nói: "Tôi tên Bát, nếu Đạo sĩ mắc nạn, hãy kêu tên tôi, tôi sẽ bay đến". Rắn nói: "Tôi tên Trườn, nếu Đạo sĩ gặp hoạn nạn gì, xin kêu tên tôi, tôi ắt đến đền ân". Nói xong, ai về chỗ nấy. 

Ngày nọ, đạo sĩ đến nhà thợ săn. Xa thấy đạo sĩ lại, thợ săn nói với vợ: "Kia là người chẳng lành đến, khi ta bảo nàng dọn bữa, thì cứ từ từ mà dọn, người ấy quá ngọ là không ăn. Người vợ thấy đạo sĩ đến, làm ra vẻ vồn vã, giả bộ mời lại đãi cơm, nhưng ngồi nói kháo đến quá ngọ, đạo sĩ cáo lui. Về núi, thấy quạ, đạo sĩ kêu: "Bát ơi!" Quạ hỏi: "Đạo sĩ đi đâu về?" Đáp: "Từ chỗ thợ săn về". Quạ hỏi: "Ngài đã ăn gì chưa?" Đáp "Nó dọn cơm chưa xong mà trời đã quá ngọ, không đúng giờ ăn, do đó ta về". Quạ nói: "Đồ yêu quỉ hung ác, khi bị nạn thì người ta lấy lòng từ cứu vớt, mà bây giờ quên ân bội nhân, là tội hung nghịch lớn nhất. Con không có thức ăn uống nên không lấy gì để cúng dường Ngài. Vậy Ngài hãy nán ngồi đây, con đi một chút xíu là trở về". Bèn bay đến nước Bàn Giá vào trong hậu cung của vua, thấy phu nhân vua nằm ngủ, trong những trang sức trên đầu có hạt châu minh nguyệt, quạ ngậm bay về, dâng cho đạo sĩ. Phu nhân thức dậy tìm chuỗi châu không thấy liền đến tâu vua. 

Vua ra lệnh cho thần dân, ai tìm được thì thưởng cho vàng bạc mỗi thứ nghìn cân, trâu ngựa mỗi thứ nghìn con. Còn ai tìm được mà không dâng nạp thì bị tội nặng, tru di cả họ. Đạo sĩ đem hạt châu cho thợ săn. Thợ săn trói đạo sĩ lại đem tâu vua. Vua hỏi: "Ngươi được vật báu này từ đâu?" Đạo sĩ nghĩ sâu: "Nếu ta nói thật ra thì quạ cả nước đều bị chết, còn nếu nói trộm được thì đó chẳng phải là đệ tử Phật". Bèn nín lặng chịu khảo tra, roi đánh tới số nghìn, vẫn không oán vua, không thù thợ săn, chỉ khởi lòng từ rộng lớn thề rằng: "Nếu ta thành Phật, độ hết khổ của chúng sinh". Vua nói: "Đem đạo sĩ chôn sống đi, chỉ chừa cái đầu, ngày mai hãy chém". Đạo sĩ bèn kêu rắn: "Trườn ơi!" Rắn nghĩ: "Thiên hạ chẳng ai biết được tên ta, chỉ có đạo sĩ mà thôi, nay cất tiếng kêu, ắt có việc gì". Bèn mau chóng đến, thấy đạo sĩ như vậy, cúi đầu hỏi: "Do đâu Ngài đến nỗi này?" Đạo sĩ thuật rõ duyên do. Rắn rơi lệ nói: "Đạo sĩ nhân từ như đất trời mà còn gặp tai họa, huống là kẻ vô đạo thì ai cứu giúp cho. Lòng nhân như trời thì không oán thù. Vua này chỉ có một thái tử, không có ai khác nối thế. Con sẽ vào cung cắn chết Thái tử, rồi Ngài lấy thuốc thần của con rịt vào, thái tử tức khắc sống lại". 

Đêm ấy, rắn bò vào cung cắn thái tử chết ngay, xác quàn ba ngày, vua ra lệnh: "Nếu ai cứu sống thái tử, ta chia nước cho mà cai trị". Rồi chở thái tử vào giữa núi để hỏa thiêu. Đường đi qua chỗ đạo sĩ. Đạo sĩ hỏi: "Thái tử bệnh gì đến nỗi mất mạng vậy? Hãy đừng chôn vội, ta có thể cứu sống" Tùy tùng nghe nói chạy về tâu vua. Lòng vua vừa buồn vừa vui, lại thêm nức nở, nói: "Ta tha tội ngươi, chia nước làm vua". Đạo sĩ lấy thuốc rịt vào thân thái tử, thái tử bỗng nhiên đứng dậy hỏi: "Ta vì sao lại ở đây?" Kẻ hầu thưa rõ mọi chuyện, thái tử về cung, mọi người lớn nhỏ vui mừng nhảy múa. 

Vua chia nước cho đạo sĩ, mỗi mỗi đều không nhận. Vua sực tỉnh nghĩ: "Chia nước còn không nhận, há có việc trộm châu ư?" Bèn hỏi: "Ngài là người nước nào, vì sao lại làm sa môn? Ngài được hạt châu từ đâu? Hạnh cao như thế, bỗng mắc nạn này là do đâu vậy?" Đạo sĩ thuật rõ đầu đuôi. Vua thương cảm ràn rụa nước mắt. Vua bảo thợ săn: "Ngươi có công trạng với nước, hãy gọi hết bà con quyến thuộc lại đây, ta muốn trọng thưởng". 

Bà con thợ săn không kể lớn nhỏ, đều đến cửa cung. Vua nói: "Bất nhân quên ân, đứng đầu các ác". Bèn giết hết bọn ấy. Đạo sĩ vào núi học đạo, tinh tấn không mỏi. Khi chết sinh lên cõi trời. 

Phật bảo các tỳ kheo: “Đạo sĩ bấy giờ là thân ta, quạ là Thu Lộ Tử, rắn là A Nan, thợ săn là Điều Đạt, còn người vợ nó là con gái của Hoài Bàn”. 

Hạnh nhân từ rộng lớn vô bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy. 

50 

Xưa vua nước Câu Thâm, tên Ức Già Đạt. Nước ấy rộng lớn, nhân dân đông đúc. Vua lấy điều ngay trị nước, dân không oan uổng, Vua có hai con, một trai một gái. Trai tên Tu Đạt, gái tên An Xà Nan, giữ hạnh trong sạch, vua rất yêu quí. Bèn xây hồ vàng, hai con vào tắm. Trong hồ có rùa. Con rùa tên Kim, mù hết một mắt cũng ở trong hồ dạo chơi, đụng nhằm mình hai trẻ. Hai trẻ cả kinh, hét lớn. Vua hỏi nguyên do. Hai con trả lời: "Trong hồ có vật đụng làm chúng con sợ". Vua giận nói: "Hồ xây cho trẻ, vật nào đến ở, làm sợ con ta". Vua ra lệnh quăng lưới bắt lấy. Rồng quỉ kỳ quái, đến xúi bắt được. Thợ chài được rùa.

Vua hỏi: "Phải làm gì để giết nó?" Quần thần hoặc nói: "Chém đầu". Hoặc nói: "Thiêu sống". Hoặc nói: "Mổ ra nấu canh". Một quan tâu lên: "Giết vậy không ghê, chỉ đem quăng sông lớn, mới gọi là ghê". Vua sai quăng vào sông.

Rùa được thoát nạn, vui mừng chạy đến chỗ rồng, tự nói rõ: "Vua người Ức Già Đạt có cô con gái đoan chính đẹp đẽ, sánh bằng thiên nữ, nhưng lòng vua người chăm chăm đại vương, muốn đem cô con gái ấy kết làm vợ chồng với Ngài". Rồng hỏi: "Ngươi nói thật không?" Rùa nói: "Đúng như thế ạ". Rồng đãi rùa một bữa tiệc lớn, đều dùng đồ báu. Rùa nói: "Sớm sai hiền thần ra đi. Vua tôi đang muốn được quyết định". Rồng sai mười sáu hiền thần theo rùa đến hào thành của vua người. Rùa nói: "Các ngươi dừng lại ở đây, ta đi vào tâu". Rùa bèn trốn mất, không thấy trở lại nữa. Mười sáu bề tôi áy náy đều đi vào thành yết kiến vua. Vua hỏi: "Các ngươi đến đây làm gì?" Cả bọn đáp: "Xin thiên vương nhân huệ tiếp chúng thần, vua muốn đem quí nữ làm phi của vua chúng thần, nên vua chúng thần sai đến nghênh đón". Vua nghe giận nói: "Há có con gái vua người mà cùng rồng rắn làm vợ ư?" Rồng đáp: "Đại vương có sai rùa thần đi tuyên mệnh, chúng thần chẳng phải đến suông". Vua không hứa gả. Các rồng biến hóa, khiến mọi vật trong cung đều thành ảnh rồng, nhiễu quanh trước sau. Vua sợ kêu lên, quần thần kinh ngạc, cùng đến dưới điện, hỏi rõ nguyên do. Vua kể hết mọi chuyện. Các quan đều nói: "Chẳng lẽ vì một cô gái mà bị mất nước sao?" Thế rồi vua cùng các quan đi ra bờ sông tiễn đưa công chúa. Công chúa bèn thành vợ vua rồng. Sinh được hai con, người trai, người gái, trai tên Bàn Đạt. 

Khi vua rồng chết, con trai nối ngôi làm vua, muốn bỏ vết dơ của đời sang, học chí hạnh cao. Nhưng vợ đến cả vạn, đều tìm đi theo, trốn tránh kín đáo, cũng không thoát khỏi. Khi lên đất liền, ẩn mình dưới cây táo gai biến làm thân rắn, quấn tròn mà nằm, ban đêm có ánh sáng như đèn dưới gốc cây ấy khoảng mấy chục chiếc. Ngày ngày mưa xuống bao nhiêu thứ hoa, sắc thắm hương thơm đời chưa từng thấy. Trong nước có người có thể yếm rồng tên Pha Đề, vào núi tìm rồng định để xin ăn, thấy bé chăn trâu hỏi: "Có thấy rồng không?" Bé đáp: "Tôi thấy một con rắn, quấn tròn nằm dưới gốc cây kia, ban đêm trên cây có mấy chục ngọn đèn, ánh sáng rực rỡ, hoa rơi như tuyết, sắc thắm hương thơm, thật khó ví dụ, tôi đem thân dựa vào cũng không có ý giết hại". Thuật sĩ nói: "Lành thay! Được như ý ta muốn". Bèn lấy thuốc độc bôi vào răng ngà của rồng, răng ngà rụng hết rồi lấy gậy đập rồng trầy da gãy xương. Thuật sĩ lấy tay vặn từ đầu đến đuôi, đau đớn vô lượng, rồng cũng không có lòng oán, tự trách nghiệp trước không tan, mới bị họa đó". Rồng thệ nguyện: "Nếu ta thành Phật cứu vớt quần sinh, khiến đều an ổn, không giống như ta hiện nay". Thuật sĩ đem rồng bỏ vào trong tráp, rồi đeo vào lưng để đi xin ăn. Mỗi khi đến nước nào, liền khiển rồng múa. Quần thần dân chúng các nước không ai là không sợ hãi. Thuật sĩ nói: "Xin vàng bạc mỗi thứ nghìn cân, nô tỳ mỗi thứ nghìn người, voi ngựa trâu xe, các súc vật mỗi thứ một nghìn". Mỗi đến nước nào, đều thu như thế. Lần hồi đi vào nước của ông nội vua rồng. Mẹ và anh em rồng đều ở đất liền tìm kiếm, hóa làm chim bay, đậu bên cung vua. Thuật sĩ đến, vua rồng hóa ra năm đầu, vừa định ra múa thì thấy mẹ, anh cùng em gái nên xấu hổ rút lại không ra múa. Thuật sĩ gọi năm sáu lần, rồng vẫn cúi đầu. Người mẹ hóa lại hình người, cùng vua tương kiến, thuật rõ đầu đuôi. Vua và thần dân không ai là không tỏ lòng thương xót. Vua muốn giết thuật sĩ, nhưng rồng xin can: "Ta vì nghiệp trước gieo nhân, nay phải nhận báo, đừng nên giết nó, chỉ thêm oán về sau. Hãy đem cho những gì theo lời nó xin, lòng từ rộng lớn như vậy Phật đạo mới thành". Vua liền làm gương cho các nước khác, sắm đủ những đồ nó thích ban cho. Thuật sĩ được của báu nhiều như vậy vui vẻ ra đi khỏi nước. Đến biên giới nước khác thì gặp giặc, thân bị băm vằm, của cải mất sạch. Mẹ con rồng của vua từ biệt nói: "Nếu đại vương nhớ tôi, kêu tên thì tôi liền đến, chứ đừng buồn bã". Vua cùng thần dân đến bờ tiễn đưa, cả nước thương khóc, không ai là không vật vã. 

Đức Phật bảo các tỳ kheo: "Vua rồng Bàn Đạt là thân ta, quốc vương Ức Già Đạt là A Nan, người mẹ nay là mẹ ta, người em là Thu Lộ Tử, người em gái là tỳ kheo ni Thanh Liên Hoa, người tàn hại rồng là Điều Đạt. 

Hạnh pháp nhẫn vô bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy.

51 

KINH VUA SẺ

Xưa có Bồ tát thân làm vua sẻ, lòng thương cứu người còn hơn mẹ hiền thương con gian khổ, bình đẳng thân sơ, thấy người vâng đạo, vui như mình làm, yêu nuôi chúng sanh, như giữ vết thương thân mình. 

Có con cọp ăn thú, xương mắc vào răng, bệnh đau muốn chết. Chim sẻ thấy vậy, lòng thấy xót xa nghĩ: "Chư Phật cho ăn là họa, việc ấy quả thế". Liền chui miệng cọp mổ xương. Ngày ngày như thế mỏ sẻ trầy thương thân hình gầy guộc. Xương ra, cọp sống. Sẻ bay lên cây nói: "Kinh Phật rằng: Giết là hung ngược, ác không gì lớn hơn. Nếu nó giết mình, há vui được sao? Nên quên mình độ người là có đức nhân của trời xuân. Người nhân thương khắp, quả lành đáp lại, hung ngược giết người thì họa theo như bóng đuổi hình. Ngươi nhớ lời ta”. Cọp nghe sẻ dạy, đùng đùng nổi giận nói: "Ngươi mới khỏi miệng ta đã dám nhiều lời ư?" Sẻ thấy cọp không thể giáo hóa, buồn bã xót thương rồi một mạch bay đi. 

Đức Phật bảo các tỳ kheo: "Vua sẻ là thân ta, cọp là Điều Đạt. Bồ tát đời đời có lòng thương cứu người, cho là việc gấp như tự lo thân mình". 

Hạnh pháp nhẫn vượt bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy. 

52 

KINH ĐẾN NƯỚC Ở TRUỒNG

Xưa Bồ tát là hai anh em chú bác, mỗi người mua hàng trong nước, cùng đem đến xứ ở truồng. Người chú nói: “Phàm người phúc dày, thì ăn mặc tự nhiên, còn kẻ phúc mỏng thì ra sức gân guốc. Nay xứ ở truồng đây không Phật, không Pháp, không chúng sa môn có thể gọi là đất không người, mà chúng ta đi đến, thì việc chào hỏi theo ý họ, há chẳng khó lắm sao? Thôi thì nhập quốc tùy tục, tiến thối tùy nghi, tính tình mềm mỏng, nói năng từ tốn, giấu khôn giả ngu ấy là lối nghĩ của bậc đại sĩ”. Người bác nói: “Lễ không thể thiếu, đức không thể bỏ, há có thể mình trần mà vứt đi cái nếp cũ của ta ư?” Người chú nói: “Nguyên tắc lớn của tiên thánh là bỏ thân xác chứ không bỏ hạnh, đó là đạo thường của giới. Trong vàng ngoài đồng để thích nghi theo thời, trước chê sau khen đó là đạo lớn của quyền biến”. Thế rồi họ đến xứ kia. Người bác nói: “Nay chú vào trước xem sự thể thế nào rồi sai người về nói thực”. Người chú nói: “Kính vâng”. Tronng khoảng mười ngày, sứ về báo người bác: “Ắt phải theo tục họ”. Người bác nói ngay: “Bỏ người mà theo súc vật, há là hạnh của quân tử ư? Chú theo đi còn ta thì không theo”. 

Tục lệ nước ấy, lấy ngày rằm và ba mươi, đêm thường tổ chức vui chơi, dùng cao dầu mè xức đầu, đất trắng vẽ mình, các xương đeo cổ, lấy hai hòn đá gõ vào nhau, trai gái nắm tay, nhởn nhơ múa hát. 

Bồ tát làm theo cả nước đều vui. Vua yêu dân kính, khách khứa liên tục, vua lấy hết của cải mua cho thập bội. Người bác di xe vào nước dùng pháp nghiêm nói năng trái với lòng dân. Vua giận, dân khinh, nên đoạt của còn đánh đập. Người chú xin mãi mới tha. Họ cùng về nước. Kẻ tiễn người chú đầy đường, còn người bác bị mắng rát tai. Người bác xấu hổ, giận nói: "Tụi kia cùng chú có bà con gì, bọn chúng với ta có thù oán gì, mà chú thì chúng cho, còn ta thì chúng cướp, há chẳng do dèm pha sao?", bèn buộc đai người chú, nói: "Từ nay về sau, đời đời hại nhau, chứ không tha chú". Bồ tát buồn bã rơi lệ thề: "Nguyện ta đời đời gặp Phật, thấy Pháp, phụng sự Sa môn, rộng báo bốn ân, cứu khắp chúng sinh, thờ bác như mình, chẳng trái thề này". Từ đó về sau, người bác luôn cản trở người chú, còn người chú thường cứu giúp người bác. 

Đức Phật bảo các tỳ kheo: "Người chú thuở ấy là thân ta, người bác là Điều Đạt". 

Hạnh từ bi mềm dịu vượt bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy. 

53 

KINH SÁU NĂM CHỊU ĐÓI TRẢ XONG TỘI

Xưa có Bồ tát làm vua nước lớn, qui y ba ngôi báu, giữ đủ mười lành, đức phủ xa gần, không ai là không chịu ảnh hưởng. Binh đao không dùng, lao ngục không có, mưa gió đúng mùa, nước mạnh dân giàu, bốn phương bình yên, đường không có lời than, sách nhơ nhảm nhí cả nước không đọc, lời chân sáu độ không ai là không tụng. 

Bấy giờ có một phạm chí giữ nết thanh tịnh, ở ẩn núi rừng, chẳng theo dòng đời, chỉ đức là chính. Đêm khát đi uống, uống lầm nước ao trồng sen của người trong nước. Uống xong lòng nghĩ: "Người mua ao này, lấy hoa dâng chùa, trái để tự dùng. Ta uống nước này, không nói chủ nó, đó là ăn trộm. Hễ ăn trộm là tai vạ, trước vào núi Thái Sơn, rồi làm súc sinh bị mổ bán ngoài chợ để đền nợ cũ. Nếu được làm người, phải làm nô tỳ, chẳng bằng ta sớm trả xong đời này, chẳng để họa sau". Bèn đến cửa cung tự báo: "Tôi phạm tội trộm, nguyện xin đại vương chiếu luật kết tội, trả hết kiếp này sau xin khỏi tội". Vua nói: "Đó là nước tự nhiên không phải vật quí, nào có tội gì?". Phạm chí đáp: "Phàm mua nhà thì có giếng, lấy ruộng ắt tiếc cỏ. Múc giếng, cắt cỏ không nói thì không lấy. Tôi không nói mà uống há chẳng là trộm sao? Xin Vua xét xử". Vua nói: "Việc nước đa đoan, hãy ngồi chờ trong vườn". Thái tử ra lệnh phạm chí vào ở sâu trong vườn. Việc vua bộn bề, quên bẵng đi sáu ngày. Bỗng nhớ ra hỏi: "Phạm chí đâu rồi? Mau gọi ra đây". Phạm chí giữ giới, đói khát sáu ngày, đến đứng trước Vua, thân thể gầy gò, đứng lên chúi xuống. Vua thấy vậy rơi lệ nói: "Lỗi ta quá nặng". Hoàng hậu mỉm cười. Vua sai người tắm rửa phạm chí, sắm đủ món ngon rồi tự thân cúng dường, cúi đầu sám hối nói: "Ta làm ông vua, để dân đói tức là ta đói, dân lạnh tức là ta mặc áo đơn, huống chi kẻ sĩ giữ đạo thi đức. Phúc của thiện sĩ cả nước không bằng đức của một hiền giả hạnh cao, nước yên dân ổn, bốn mùa thuận, lúa gạo nhiều, nếu không do đức của trì giới thì ai có thể làm được". Bèn gọi đạo sĩ nói: "Uống nước không báo, tội còn như thế, huống gì trộm thiệt, không có lỗi nặng sao? Vì vậy ta tha cho Ngài, chắc sau chẳng bị họa". Phạm chí nói: "Tốt lắm! Xin đội ân lớn của vua". 

Từ đó về sau, sống chết luân chuyển không bờ, đến lúc thành Phật, không ăn sáu năm, tội hết thì đạo thành. Vì Câu Di tự giải. La Vân mới sinh. Thái tử bỏ nước, chuyên ở núi rừng, bọn tà kiến đều bảo điên cuồng, tiếng chê không ít. Thái tử nghe vậy, chịu lời nhục báng, đáp bằng thương giúp, phúc đầy đạo thành, chư Thiên nhóm lại, cúi đầu vâng dạy. Đế vương thần dân không ai là không qui y. 

Đức Phật bảo các tỳ kheo: "Vua bấy giờ là thân ta, phu nhân là Câu Di, thái tử là La Vân. Phàm chuộng ác thì họa theo, thi đức thì phúc về. có thể không cẩn thận ư?" 

Vua quên đạo sĩ, khiến đói sáu ngày, nên chịu tội đói khát sáu năm mới dứt. Sáu ngày sau tự thân vua cúng dường nên nay sáu năm họa hết đạo thành. Câu Di mỉm cười, nay mang thai thái tử La Vân sáu năm bị bệnh nặng, thái tử bảo phạm chí đi sâu vào trong vườn nên sáu năm ở chỗ tối tăm. Kẻ ngu tối nặng, không hiểu tiến thối, đem lòng ác đối với Phật, sa môn, và phạm chí, chặt tay kéo lưỡi khổ một đời này, dùng tay đánh bậy, lấy miệng chửi càn, chết vào núi Thái, quỉ ở núi Thái rút lưỡi nó ra, treo chỗ cát nóng, đem trâu cày lên, lại lấy đinh nóng đóng vào năm vóc, muốn chết không được. Họa dữ như thế, cẩn thận đừng làm việc quấy. 

Hạnh pháp nhãn vượt bờ của Bồ tát, nhẫn nhục như vậy. 

54 

KINH NHÀ HỌ THÍCH ĐỀN TỘI XONG

Xưa có Bồ tát giữ giới hạnh trong, chứa công dồn đức, bèn thành Như Lai Vô Sở Trước Chính Chân Đạo Tối Chính Giác. 

Khi chơi ở nước Xá Vệ, trời rồng quỉ thần, đế vương thần dân không ai là không theo về. Đạo tà thuật quấy, gặp Phật vĩ đại, như trời sáng chói, lửa đóm trốn lui. Tham ganh nổi lên, không thấy lửa cháy mất thân, bèn kết mưu với bọn xấu, xúi nữ đệ tử tên Hảo Thủ đến hủy hoại đấng Thiên tôn. Quốc nhân chưa hiểu lẽ thật, có vẻ trầm ngâm ngờ vực, lòng nghi các sa môn, vua cũng lấy làm lạ. Đạo tà tham dơ tranh của tố nhau. Dơ hiện họa chuốc, liền bị phế ngay. Trinh chân chiếu rõ, trời người ngợi khen. Vua đến tịnh xá cúi đầu sám tội, vì vậy có lòng hổ thẹn, nhờ đó mới xin được kết hôn với người em gái của Phật nhằm dứt nỗi oán của giòng họ Thích. Đức Thế Tôn nói: "Ta bỏ nhà làm sa môn, không dự việc đời, việc cưới gả đều do vua cha ta". Thế rồi sai sứ giả đến, kính tuyên lời kết thân. Họ Thích không chịu. Vua nói: "Phật ở nước ấy, do vậy các ông qua lại, người sáng không oán, kẻ ngu mới thù. Con gái là con của tiện thiếp ta, sao đủ để gây hờn?". Vua hứa: "Được". Bèn thành vợ chồng, sinh trai nối dõi. 

Một lần xin thăm các cậu, bèn đi về nước họ Thích. Bấy giờ Phật đang trở lại khai hóa họ Thích. Họ Thích vui mừng, dựng tinh xá cho Phật, đào đất ba thước, lấy hương chiên đàn lấp vào, góp báu cả nước làm tinh xá cho Phật, rực rỡ lộng lẫy giống như cung trời. Tiếng đồn lân quốc, ai cũng náo nức. Phật chưa lên ngồi, mà thế tử vào xem, nói: "Tinh xá này đẹp, của báu lộng lẫy, chỉ cung vua trời mới sánh được thôi". Lại nói, Phật chưa đến đây, ta thử lên ngồi có chết cũng không hận. Bạn quí thế tử tên Đầu Khư Ma nói: "Thì có mất gì", bèn leo lên ngồi. Hùng sĩ họ Thích, lớn tiếng mắng: "Tòa quí Thế Tôn, vua trời chưa dám, sao con đứa ở, dám leo lên tòa". Bèn phá làm lại. Thế tử đi ra, gọi bạn lại bảo: "Nhục này không gì hơn. Nếu ta làm vua, ngươi chớ quên nhé". Bạn đáp: "Dĩ nhiên". Bèn về nói với mẹ, muốn làm thái tử. Mẹ dùng yêu quỉ, xin cho con được như nguyện. Vua nói: "Xưa nay chưa nghe, đừng bày lời bậy, tự chuốc xấu hổ". Yêu quỉ ở trong, nịnh thần khéo lời, bèn lập hai con, chia dân cai trị. Vua băng, ngôi chia hai nước, dân tùy ý thích, lành dữ rẽ dòng. Người nhân theo anh, kẻ hung về em. Người bạn làm tướng quốc, sửa soạn chiến tranh, chuẩn bị quân dụng, rồi đem việc cũ tâu vua. Vua nói: "Được". Bèn đem binh hùng tướng mạnh lên đường. 

Thấy Phật bên đường, ngồi chỗ cây khô phân nửa. Vua đến cúi đầu hỏi: "Phật không ngồi chỗ cây tươi mà ngồi dưới cây khô phân nửa, chắc có lý do?" Đức Thế Tôn nói: "Cây này tên Thích, ta yêu tên ấy, đem đạo nhân cứu nạn nó, làm tươi cái khô, cho nó sự sống". Lòng vua hổ thẹn, buồn bã nói: "Lòng nhân đức Phậtrộng khắp ban đến cỏ cây, huống chi là người?" Thế rồi đem quân về, Tướng quốc ngửa nhìn thiên văn, thấy họ Thích phúc xưa đã hết, tai họa lại lên, lại đem tâu vua. Lại cho xuất quân, chưa đến thành họ Thích, còn mấy dặm, nghe tiếng cung nỏ trong thành, kêu như mưa gió, cờ dài cờ đuôi dù lọng cán gãy, cột tan, giáp xé cương đứt, quân ngưạ chẤn Động chạy loạn, không ai là không mất hồn. Vua lại chạy về. Họ Thích thưa Phật: "Làm sao đánh giặc ấy?" Đức Phậtnói: "Đóng cửa ải, phá cầu hào". Vua lại xuất quân. Mục Liên thưa Phật: "Con muốn dùng uy thần của La hán hóa ra lưới trời phủ mặt thành bốn mươi dặm, vua làm gì được họ Thích". Đức Thế Tôn đáp: "Không làm tội gì sao?" Lại hỏi: "Đem trốn qua đất nước khác". Đức Thế Tôn nói: "Không làm tội gì à?" Mục Kiền Liên hỏi: "Con có thể cứu hữu hình, chứ không làm gì cứu tội vô hình sao?" Đức Thế Tôn nói: "Gieo ác thì họa sinh, ai có thể cứu". Hãy lấy một người con họ Thích để dưới bát của ta, chứng thực việc ấy. Mục Liên y lệnh. Các người kỳ cựu họ Thích vâng lời giữ cửa. Ma hóa làm người quen đức độ, đến la họ Thích: "Vua mượn đương đi, các ngươi tuyệt đường, sau tội càng nặng, đệ tử Phật đi có được không?" Ma thừa thế, rút then mở cửa, quân tràn vào như nước vỡ đê. Thích Ma Nam làm đại tướng quân cùng tiên vương của vua học chung thầy. Có lời thề với bạn chết gọi vua nói: "Hãy dừng quân hung trong chốc lát, để người trong thành được ra toàn mạng". Vua nói: "Được". Đại tướng quân đến bờ hào, hướng về Đức Phật, cúi đầu rơi lệ mà rằng: "Lấy mạng hèn của con, xin người trẻ kia, nguyện cho quần sanh mười phương đều vâng lời Phật, quên mình cứu người, nhuần thấm đất trời, đừng làm chuyện độc sói rắn, tàn giết chúng sinh, như vua vô đạo này". 

Rồi xuống sông, lấy tóc quấn vào gốc cây, chốc lát thì chết. Vua sai sứ giả đến xem. Sứ về kể đúng mọi việc. Lính vào đào đất chôn họ Thích nửa người, đặt cây ngang cho voi kéo, giết sạch hết, rồi cho hoặc ngựa kéo, hoặc lính chém. Đức Phật bấy giờ đầu nhức, đau không thể tả. Phạm vương, Đế Thích, Tứ thiên vương chắp tay đứng hầu, thấy vậy đau lòng. Họ Thích có người qui y tam bảo, người tụng kinh, người khởi lòng từ. Họ Thích có ba thành, khi chiến sự chưa xong, vua nhớ Thích Ma Nam giết mình để cứu mạng mọi người, vì vậy buồn bã, rút quân bãi binh, khiến sứ giả đến kính Phật nói: "Quan sĩ nhọc mệt, xin về nước dừng quân. Ngày khác sửa đai đến lễ dưới chân. Đức Phật dạy: "Cảm ơn vua tự thương mình". Sứ giả lui về. Đức Phật trông theo. A Nan sửa pháp phục đến cúi đầu thưa: "Phật chẳng nhìn suông ắt có duyên cớ". Đức Thế Tôn nói: "Tội họ Thích đã xong. Tội vua kia bắt đầu". 

Sau đó bảy ngày, quỉ núi Thái lấy lửa thiêu vua và thần dân. Tội vua khó cứu, như họa họ Thích khôn trừ. Đức Phật bảo A Nan nâng bát, người dưới bát cũng chết. Đức Phậtđem các sa môn đến giảng đường phạm chí. Đường đi ngang đất họ Thích chết, có người hoặc đã chết, hoặc gãy tay, chân, đùi. Thấy Đức Phật đến, có người vẻ mặt ngậm ngùi "Qui mạng Phật, qui mạng Pháp, qui mạng Thánh chúng, nguyện mười phương quần sinh đều được an lành vĩnh viễn, không ai như chúng con". Lúc ấy tự nhiên giường từ đất hiện ra, đất không kẽ hở, các sa môn đều ngồi xuống. Đức Phật nói: "Vua này bội nghịch, gây tội rộng lớn". Lại hỏi các sa môn: "Có thấy đồ tể, thợ săn, chài lưới dược làm Phi hành hoàng đế không?" Đáp: "Không thấy". Đức Phật nói: "Lành thay! Ta cũng không thấy! Vì chúng không có lòng tứ đẳng, bố thí cho quần sinh". 

Vua đến bên hồ, quân sĩ vào hồ tắm, thần hồ hóa làm rắn độc cắn họ. Độc thấm, mình đen, có người hoặc chết ngay trong hồ, hoặc một trăm bước một dặm chết. Còn lại phân nửa đi vào kinh đô. Quỉ dữ tụ tập trong cung, ban đêm người la thú kêu, kéo nhau nhóm lại, đợi sáng thì giết, trời trăng ăn nhau, tinh tú mất chừng, từ đầu đến cuối nước đều quái dị, không ai là không oán vua. Vua nghe Phật dạy mặt đỏ như lửa, lòng nóng như sôi, bèn sai sứ giả đến hỏi việc ấy. Đức Phật cũng nói như trên. Sứ giả về tâu rõ nước rung ngói vỡ, vua họp quần thần bàn nói: "Hoặc lên núi hay xuống biển". Bèn lên thuyền vào biển, giàu mạnh được theo, nghèo yếu ở lại trong nước. Người trong cung vua lên thuyền mặc đẹp, thấy lửa cởi áo, gỡ viên châu dương toại gắn trên áo. 

Hôm ấy mây giăng mù mịt, mưa gió đùng đùng, bè đứt thuyền trôi, thần dân đều nói: "Vua tối làm ác mới có họa dữ". Lúc giữa trưa, mặt trời phóng ra ánh thiêu ánh đốt, ánh đốt biến ra lửa bắt đầu từ thuyền vua. Quỉ thần núi Thái nhóm họp rầm rầm. Cả nước còn sống mà rinh vào ngục núi Thái. Người ở lại bờ chỉ sợ một chút nhưng được toàn mạng. Hôm ấy Đức Phật khởi định lòng từ, các sa môn hỏi A Nan: "Đức Phật không ra sao?". A Nan đáp: "Cả nước đại tang, Phật khởi định từ nên không ra". Sáng sớm hôm sau Đức Phật ra ngoài, các sa môn cúi đều sát đất. Đế Thích, Phạm vương, Tứ đại thiên vương, các rồng, thần, quỉ... Đế vương, thần dân cúi lạy đến ngồi. A Nan sửa áo, hỏi: "Nguyên do họa biến của hai nước, xin cởi mọi nghi, khiến quần sinh hiểu họa phúc do đâu". Đức Phật bảo A Nan: 

"Xưa có ba nước gần nhau làm vua. Bấy giờ Đức Phật qua đời đã lâu, kinh sách không ai tu hành. Nước Bồ tát ở, đến chỗ hồ ao bắt cá vô số. Nước gần nghe vậy vui vẻ, đem của đến mua nhưng cá đã hết, buồn bã trở về. Nước xa không biết, cũng không có ý mua. Người chài lưới trong nước ấy, nay là ba ức người họ Thích chết vậy. Còn nước vui vẻ muốn mua cá đó nay là một thành người sợ hãi chạy mất cả tiền của. Nước xa không nghe bắt được cá, nay là người trong một thành không biết vua đến vậy. Còn ta lúc ấy, thấy đập đầu cá lỡ lời nói được, nay đã thành Phật, làm bậc tôn kính trong ba cõi, mà còn không thoát được nạn đau đầu, huống gì là kẻ phàm phu ư. Các đệ tử! Hãy đoan chính lòng mình, dấy lòng từ bi làm yên ổn quần sinh, quên mình cứu người, cẩn thận chớ sát sinh, trộm tiền của người, dâm với người chẳng phải vợ mình, nói hai lưỡi, nói chửi ác, nói dối, nói thêu dệt, ganh ghét sân si, bài báng tam bảo, họa lớn không gì hơn là mười ác, phúc sang tôn quí chỉ có mười lành. Giết vật là giết mình, cứu vật là cứu mình. Nhọc lòng nghĩ ác, miệng nói ác, thân làm ác, chẳng bằng nhọc lòng nhớ đạo, miệng nói đạo, thân làm đạo. Làm lành phúc theo, làm ác họa đến, như vang đáp tiếng, như bóng đuổi hình. Thấy sự biến hóa như vậy, hãy cẩn thận chớ trái đức nhân của trời xuân mà chuộng thói hung tàn của lang sói.

Phật nói kinh xong, bốn hàng đệ tử, trời rồng thần quỉ đều rất vui mừng, làm lễ mà lui.



---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567