Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

51. Quốc sư Viên Thông, Đời thứ 18, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi

02/10/202109:11(Xem: 10541)
51. Quốc sư Viên Thông, Đời thứ 18, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi

294_TT Thich Nguyen Tang_Quoc Su Vien Thong


Quốc Sư Viên Thông (1080 - 1151
Đời 18 Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi

(Thời Vua Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông & Lý Anh Tông)

🙏🙏🙏🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️

Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Bài trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm & Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh ; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước


 

Nam Mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ, hôm nay Thứ Ba, 5/10/2021, chúng con được học về Thiền Sư và Quốc Sư Viên Thông, đời thứ 18, Thiền Phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư phụ dựa theo tài liệu gốc Thiền Sư Việt Nam do HT Thích Thanh Từ biên soạn và ấn hành tại VN vào năm 1972. Pháp thoại hôm nay là bài giảng thứ 294 của Sư Phụ bắt đầu từ mùa cách ly do bệnh đại dịch covid 19 (đầu tháng 5-2020).

 

Sư tục danh Nguyễn Nguyên Ức, quê làng Cổ Hiền sau dời về phường Thái Bạch, kinh đô Thăng Long, lập nghiệp luôn tại đây. Thế tộc làm Tăng quan, cha tên Huệ Dục làm quan dưới triều Lý đến chức Tả hữu nhai Tăng lục, đạo hiệu là Bảo Giác thiền sư.

Sư tư chất thông minh, học hiểu đến chỗ tinh diệu, xuất gia lúc còn nhỏ. Thọ học với Thiền sư Viên Học ở chùa An Quốc, huyện Cổ Hiền, Sư được thầy truyền tâm ấn.

 

Sư Phụ giải thích:

- Thiền Sư Viên Thông là Quốc Sư trong triều đại nhà Lý, Lý Thần Tông và Lý Anh Tông. Ngài là đệ tử nối pháp của thiền sư Viên Học.

 

- Thân Phụ là Tăng quan, đạo hiệu là Bảo Giám thiền sư là tước vị cao quý và có  kiến thức quảng bác về giáo lý và có quyền có gia đình.

 Năm thứ sáu niên hiệu Hội Phong (1097), Sư đậu Thủ khoa kỳ thi Tam giáo, sung chức Đại văn. Đến năm thứ tám niên hiệu Long Phù Nguyên Hóa (1108), Sư lại đứng đầu kỳ tuyển khoa hoằng tài để bổ khuyết Tăng đạo. Nhà vua quá quí kính muốn đem chánh sự giao phó cho Sư, Sư cố từ chối chẳng dám nhận. Vua bèn tiến chức Nội cung Phụng truyền giảng pháp sư. Bấy giờ, Sư tùy cơ giảng giải giáo lý, khiến người giác ngộ, phá ngu giải hoặc không còn dư thừa. Những người thụ giáo nơi Sư đều nổi tiếng sau này.

 

 Sư Phụ giải thích:

- Sư đậu thủ khoa kỳ thi tam giáo: Lão giáo, Khổng giáo và Phật giáo. Về Lão giáo: sư phải làu thông về Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh; về Khổng giáo Sư phải quảng bác về Tứ thư Ngũ kinh; về Phật giáo sư phải nghiên cứu sâu rộng về  tam tạng kinh luật và luận, mới có thể đậu thủ khóa trong kỳ thi Tam Giáo trên.

 

 

Năm thứ ba niên hiệu Hội Tường Đại Khánh (1112), sau khi trùng hưng ngôi chùa Diên Thọ, Vua sắc Sư làm bài văn bia. Vua mến phục tài, phong Sư lên chức Tả nhai Tăng lục.

 

Sư Phụ giải thích:

 

- Chùa Diên Thọ, Diên là kéo dài, Thọ là mạng sống. Diên Thọ là kéo dài mạng sống. Sư Phụ đọc câu kinh có chữ Diên Thọ: Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Minh Diên Thọ

 

- Chức vụ Tả nhai Tăng lục, chỉ chuyên giảng về giáo lý, không có chính trị.

 

- Sư làm rất nhiều văn thơ cả ngàn bài, nhưng vì bị thất truyền, rất tiếc chỉ còn lại một bài luận ngắn:Thiên hạ Hưng vong trị loạn Tiêu Diên Luận, trong kho tàng văn thơ triều đại nhà Lý, Sư hiến kế cho Vua về cách cai trị  đất nước.

 

 

 

 Năm thứ ba niên hiệu Thiên Thuận (1130), vua Lý Thần Tông triệu Sư vào cung để hỏi việc trị loạn, hưng vong của đất nước. Sư đáp:

- Thiên hạ ví như món đồ dùng, đặt vào chỗ yên thì yên, đặt vào chỗ nguy thì nguy, chỉ ở đức vua thực hành khác nhau đó thôi. Đức hiếu sanh của vua nhuần thấm đến nhân dân thì nhân dân yêu vua như cha mẹ, tôn vua như mặt trời, mặt trăng, thế tức đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy.

 

Sư Phụ giải thích:

- Sư Viên Thông sống vào ba triều đại nhà Lý, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông và Lý Anh Tông.

Sư Viên Thông nhỏ hơn vua Lý Nhân Tông 14 tuổi.

- Thời phong kiến, vua là bậc thiên chủ, dưới trời là vua, có quyền sanh sát. Sư dùng từ rất chính xác “thiên hạ ví như món đồ dùng…”.

- Thời nhà Lý và nhà Trần, vua đem lại lợi ích cho dân nên đất nước được thái bình.

- Sư Phụ giải thích, từ thế kỷ thứ 18, chế độ quân chủ chuyên chế đã thay đổi thành quân chủ lập hiến hay quân chủ đại nghị, rồi chuyển sang các chế độ dân chủ, hiện trên thế giới chỉ còn vài chế độ độc tài độc đảng như Trung Quốc, Liên Xô, Cuba, Bắc Hàn và Việt Nam, mong rằng những quốc gia này sớm có dân chủ để cho người dân không còn khổ đau nữa.

- Thiền Sư Viên Học hiến kế cho vua, Đức Hiếu sanh rất thiết thực nên đối với dân như cha mẹ thì đất nước mới được thái bình.

 

Kính mời xem tiếp
https://quangduc.com/a71852/quoc-su-vien-thong-1080-1151-doi-18-thien-phai-ty-ni-da-luu-chi-


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2011(Xem: 3876)
Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. Đạo Phật cũng là đạo bình đẳng và tự giác cho tất cả những ai muốn tìm đến con đường hướng thượng của sự giải thoát và giác ngộ. Kinh Pháp Cú có câu: Người thấm nhuần giáo pháp sống hạnh phúc với tâm an lạc.
12/10/2010(Xem: 9464)
Một trong những bộ sách đặc biệt của Tây Tạng là bộ Tử Thư (Tibetan Book of the Dead) viết về đời sống sau khi chết.
12/10/2010(Xem: 7549)
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).
16/09/2010(Xem: 8537)
Audio: Niệm Phật Thập Yếu (Trọn Bộ, 5 Phần)
08/09/2010(Xem: 12130)
Từ Bi Thủy Sám Pháp Bản dịch: HT Thích Trí Quang Giọng tụng: TT Thích Hạnh Tuấn
28/08/2010(Xem: 51327)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
06/08/2010(Xem: 16608)
Kinh Đoạn Tận Ái do HT Thích Chơn Thiện giảng
04/08/2010(Xem: 16505)
Audio: Kinh Đoạn Giảm do HT Thích Chơn Thiện giảng
12/06/2010(Xem: 10989)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bộ kinh tuyển chọn những lời Phật dạy ở rải rác trong kho tàng Kinh điển Phật giáo. Lịch sử truyền bá bộ kinh, cho đến nay các nhà nghiên cứu vẫn còn chưa thống nhất. Theo sử Phật giáo Trung Quốc thì Kinh Tứ Thập Nhị Chương được hai ngài Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapamàtanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmarakinhsa) dịch từ bản Phạn qua Hán năm 67 Tây lịch tại Lạc Dương. Kinh Tứ Thập Nhị Chương cũng là một bộ kinh được lưu hành tại Giao Châu vào thế kỷ thứ hai.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567