Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Thiền Sư Khuông Việt, Đời thứ 4, Thiền Phái Vô Ngôn Thông

29/08/202109:16(Xem: 14763)
14. Thiền Sư Khuông Việt, Đời thứ 4, Thiền Phái Vô Ngôn Thông


256_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Khuong Viet

Nam Mô A Di Đà Phật


Kính bạch Sư Phụ,


Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Khuông Việt, ngài thuộc đời thứ 4 của thiền phái Vô Ngôn Thông, và cũng là vị Tăng Thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Thiền sư Khuông Việt (933-1011),  là một vị thiền sư nổi tiếng trong nền lịch sử PG Việt Nam và có vị trí quan trọng trong lòng dân tộc Việt vào thế kỷ thứ 10.


Ngài thế danh Ngô Chân Lưu, quê làng Cát Lợi quận Thường Lạc, dòng dõi của Ngô Thuận Đế. Sư dáng mạo khôi ngô, ý chí lỗi lạc và tánh tình bình thản .Thuở nhỏ theo nghiệp nho, lớn lên trở về Phật. Sư thọ giáo với thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc, thấu tột thiền yếu và đọc khắp các kinh điển.

Sư dáng mạo khôi ngô, ý chí lỗi lạc và tánh tình bình thản. Thuở nhỏ theo nghiệp Nho, lớn lên trở về Phật. Sư thọ giáo với Thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc, thấu tột thiền yếu và đọc khắp các kinh điển.

 

Năm bốn mươi tuổi, danh Sư vang khắp tùng lâm, vua Đinh Tiên Hoàng mời vào cung hỏi đạo. Sư ứng đối rành rẽ, Vua rất mến phục, phong chức Tăng thống. Năm sau, niên hiệu Thái Bình thứ hai (971), Vua lại phong Khuông Việt đại sư.

 

 

Sư phụ giải thích chi tiết về thân thế của Thiền Sư Khuông Việt, ngài cháu nội của Vua Ngô Quyền, thụy hiệu là Ngô Thuận Đế. Vào năm 939, Ngô Quyền lên ngôi sau khi đánh thắng quân Nam Hán. Ông làm vua được 5 năm thì băng hà, ông ủy thác con trai là Ngô Xương Ngập (Cha của TS Khuông Việt) cho em vợ là Dương Tam Kha giúp đỡ, nhưng Dương Tam Kha cướp ngôi, tự xưng là Dương Bình Vương 944-950, ở ngôi được 6 năm, sau đó con thứ của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn giành lại ngôi và lập ra nhà Hậu Ngô Vương, tính từ năm 950 đến 965. Hậu Ngô Vương gồm hai vua Nam Tấn vương và Thiên Sách vương. Một triều đình có hai Vua là trường hợp hy hữu trong lịch sử Việt Nam và trên thế giới. Do vì năm 950, Ngô Xương Văn tự xưng làm Nam Tấn Vương, đóng đô ở Cổ Loa. Ngô Xương Văn cho người đón anh trai Ngô Xương Ngập về, khi đó Ngô Xương Ngập đang trốn ở Trà Hương, Nam Sách. Được Dương thái hậu chuẩn tấu, Ngô Xương Ngập cũng làm vua, là Thiên Sách Vương. Lúc đó cùng tồn tại hai vua Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương. Sau đó, Ngô Xương Ngập định trừ Ngô Xương Văn để một mình làm vua. Nhưng năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh chết, làm vua được 4 năm. Chỉ còn một vua là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn. Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh loạn hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình bị phục binh bắn nỏ chết. Con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp, nhưng thế lực ngày càng yếu kém phải lui về giữ đất Bình Kiều. Từ 966 hình thành 12 sứ quân, sử sách gọi là loạn 12 sứ quân:

1/Ngô Xương Xí

2/Ngô Nhật Khánh

3/Đỗ Cảnh Thạc

4/Phạm Bạch Hổ

5/Kiều Công Hãn

6/Kiều Thuận

7/Nguyễn Khoan

8/Nguyễn Siêu

9/Nguyễn Thủ Tiệp

10/Lý Khuê

11/Trần Lãm

12/Lã Đường)


Lúc này Đinh Bộ Lĩnh (con trai của Đinh Công Trứ, Quan Thứ sử Hoan Châu dưới thời của Dương Đình Nghệ) dẹp loạn 12 sứ quân  và lên ngôi, xưng vương Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, lấy Hoa Lư làm kinh đô. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết, con là Đinh Toàn mới sáu tuổi được triều thần đưa lên ngôi. Từ 980 – 1005: Nhà Tống xâm lược Việt Nam, thái hậu Dương Vân Nga, mẹ của Đinh Toàn mời Lê Hoàn lên ngôi để cầm quân chống giặc Tống. Lê Đại Hành lên ngôi, đóng đô ở Hoa Lư năm 1005, Lê Đại Hành mất. Từ 1005 đến 1009, thời đại của Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều. Từ 1010 đến 1028. Lý Công Uẩn được triều thần tôn lên ngôi hoàng đế sau khi Lê Ngọa Triều mất. Năm 1010, Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) cho dời đô về Thăng Long và triều Lý kéo dài đến 216 năm sau, giai đoạn độc tự chủ của VN cũng là thời vàng son của PGVN.


Kính mời xem tiếp



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/05/2011(Xem: 4670)
I. DẪN NHẬP Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ, thấu đạt lý Bát-nhã để đi vào Không môn. Do đó chúng tôi xin trao đổi một chút về ý nghĩa: “Yếu chỉ Tâm kinh Bát-nhã”. Tất cả Phật tử chúng ta đều thuộc lòng bài Tâm kinh Bát-nhã, nhưng thuộc lòng danh tự Bát-nhã vẫn chưa đủ mà phải thuộc lòng Bát-nhã.
24/02/2011(Xem: 25608)
8 Điểm Gặp Gỡ Kinh Nam và Bắc Tạng - HT Thích Chơn Thiện giảng
05/01/2011(Xem: 13002)
Lễ Thù Ân Giọng tụng: HT Thích Quảng Bình (HT Thích Quảng Bình lễ Thù Ân tại Tu Viện Quảng Đức ngày 5/11/2011)
05/01/2011(Xem: 4598)
Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt tất cả những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. Đạo Phật cũng là đạo bình đẳng và tự giác cho tất cả những ai muốn tìm đến con đường hướng thượng của sự giải thoát và giác ngộ. Kinh Pháp Cú có câu: Người thấm nhuần giáo pháp sống hạnh phúc với tâm an lạc.
12/10/2010(Xem: 10852)
Một trong những bộ sách đặc biệt của Tây Tạng là bộ Tử Thư (Tibetan Book of the Dead) viết về đời sống sau khi chết.
12/10/2010(Xem: 8778)
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).
16/09/2010(Xem: 9906)
Audio: Niệm Phật Thập Yếu (Trọn Bộ, 5 Phần)
08/09/2010(Xem: 12953)
Từ Bi Thủy Sám Pháp Bản dịch: HT Thích Trí Quang Giọng tụng: TT Thích Hạnh Tuấn
28/08/2010(Xem: 57965)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
06/08/2010(Xem: 20500)
Kinh Đoạn Tận Ái do HT Thích Chơn Thiện giảng
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]