Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thập Tam Tổ Ấn Độ Ca Tỳ Ma La (Kapimala) 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻

27/12/202014:33(Xem: 10075)
Thập Tam Tổ Ấn Độ Ca Tỳ Ma La (Kapimala) 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻


Thập Tam Tổ Ấn Độ Ca Tỳ Ma La (Kapimala)
Thuyết giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Bài trình pháp: Cư Sĩ Quảng Tịnh Tâm & Cư Sĩ Huệ Hương
Diễn đọc: Cư Sĩ Diệu Danh ; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước-Quảng Tịnh




Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay Sư phụ giảng về Tổ thứ 13 của Ấn Độ, Ngài tên Ca Tỳ Ma La (Kapimala), Ngài ra đời vào thế kỷ thứ hai Tây lịch trong 1 gia đình theo ngoại đạo. Ngài nổi tiếng về huyển thuật và phù phép. Ngài hoá thành con sâu đến núp dưới bồ đoàn (chỗ ngồi) của Tổ Mã Minh để nghe trộm giáo lý. Lúc ấy Tổ thứ 12 Mã Minh đang giảng và bắt ngay tại trận, ngài xuống lệnh con sâu phải lộ nguyên hình, con sâu ấy đã hiện ra hình người, đó là ngài Ca Tỳ Ma La, vị này đảnh lễ xin sám hối và cầu xuất gia tu học theo Tổ.

Con rất thích thú khi nghe Sư phụ kể câu chuyện lý thú này, lý thú ở chỗ ngoại đạo Ca Tỳ Ma La dùng phép thuật hóa hiện nhưng Tổ Mã Minh với thần thông diệu dụng đã thấy rõ hình tướng của đối phương để hàng phục một cách dễ dàng.


Ngài Ca Tỳ Ma La có phước duyên dự một đại giới đàn long trọng, được Sư phụ Mã Minh cung thỉnh 500 vị A La Hán chứng minh, có 3000 giới tử thọ giới và Ngài đã đắc giới thể thanh tịnh, hương thơm của giới thể tỏa ngát ngay trong ngày thọ giới.

Bạch Sư Phụ, con cảm ơn Sư Phụ kể câu chuyện thọ giới này, con rất thích chi tiết trên, nhờ SP diễn tả chi tiết về giới đàn, con mới biết sự long trọng hùng vĩ trang nghiêm thanh tịnh của đại giới đàn truyền giới, và nhất là quy tắc đại giới đàn vẫn được truyền đăng tục diệm (nối lữa tiếp đèn) từ Đức Thế Tôn xuyên suốt hơn 26 thế kỷ qua, từ Ấn Độ cho tới ngày nay trên quê hương VN và các nước trên thế giới.

Con mơ ước được đứng một góc nào đó trong giới đàn, tĩnh lặng, xúc động ...thành tâm chiêm ngưỡng một giới đàn thành tựu linh thiêng với 3 điều kiện:

1- giới đàn trang nghiêm
2-giới Sư thanh tịnh
3- giới tử chí thành


Nếu thiếu 1 trong 3 điều kiện trên thì giới đàn không thành công và bản thân giới tử không đắc giới.

Con mộng ước một kiếp nào đó, nếu con không được về cõi Tịnh của Đức A Di Đà, thì con được dự một giới đàn lung linh kỳ vĩ như thế. Con cảm ơn Sư phụ đã đem lại niềm lạc quan cho con với lời khuyến khích "cứ mơ ước đi rồi ước mơ kia có ngày sẽ biến thành hiện thực". Tất nhiên, Sư phụ sau đó có giải thích "ước mơ" là 1 từ khác của phát bồ đề tâm mà phát bồ đề tâm là hạt giống bồ đề của mình đã gieo xuống mãnh đất cằn cổi của mình, có hạt giống ở đó rồi, từ từ có ngày nó sẽ nẫy mầm, đơm hoa và kết trái. Con rất vui khi mơ tưởng đến ngày ấy.

Tổ Ca Tỳ Ma La sau khi đắc pháp, ngài đến Trung Ấn giáo hoá. Ngài đi về phía nam của chân núi gặp một con rắn thần dài 1 dặm (hơn 1000 mét) theo Ngài rồi bỏ đi. Khi Ngài đến hang đá gặp một ông già râu tóc bạc và được biết là từ con rắn hoá ra. Ông già cho biết trước kia ông là một tỳ kheo nhưng vì tánh sân nổi lên khi bị quấy phá nên bị đọa làm kiếp rắn 1000 năm.

Bạch Sư Phụ, khi nhớ hình ảnh vị tỳ kheo bị hoá kiếp làm rắn, con sợ quá, con nguyện cố gắng tu tập không khởi niệm Sân nữa, con kính niệm Phật A Di Đà từ bi tế độ cho con.

Vị tỳ kheo được Tổ Ca Tỳ Ma La khai thị, và trình tổ là cách đây 10 dặm (khoảng 16 cây số), có một vị ở dưới tàng cây thường nói pháp, Tổ liền lên đường tìm vị này (ý nói Ngài Long Thọ).

Ngài Long Thọ chào hỏi và trong tâm nghi ngờ trong tâm Tổ chưa là 1 vị đắc đạo. Tổ đọc được ý nghĩa đó của Ngài Long Thọ và khuyên bảo Long Thọ xuất gia tu học. Ngài Long Thọ quy Phục, sụp lạy sám hối và xin xuất gia và được Tổ Ca Tỳ Ma La ấn chứng truyền kệ :

"Pháp không ẩn không hiển,
Nói là mé chơn thật,
Ngộ pháp ẩn hiển nầy,
Chẳng ngu cũng chẳng trí ".

Sư Phụ giải thích Pháp không ẩn cũng không hiện chính là Phật tánh, pháp này không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được. "Không ngu cũng không trí" là ý Tổ muốn hành giả phải vượt lên trên nhị biên, là 2 phạm trù: có-không, thường-đoạn, vọng-chơn, phàm-thánh, vì còn nhị biên là còn đối đãi, còn đối đãi là còn phiền não, còn phiền não là còn luân hồi khổ đau.

Sư phụ có dẫn trong Kinh 42 chương, Phật dạy rằng " Pháp của Như Lai dạy rằng niệm vô niệm niệm, ngôn vô ngôn ngôn, hành vô hành hành, tu vô tu tu,chứng vô chứng chứng".

Trong Kinh Niết Bàn Phật cũng dạy ý này: “Người vô sở đắc là trí tuệ. Người hữu sở đắc gọi là vô minh” (Vô sở đắc giả tắc danh vi huệ, hữu sở đắc giả danh vi vô minh). Có nghĩa là hành giả tu tập muốn giải thoát phải ly khai mọi ý niệm dính mắc về pháp môn, không trú trước trên sở đắc, sở chứng của mình, phải tự tại thong dong.

Con kính cảm ơn Sư Phụ đã từ bi hoan hỷ ban pháp vị cam lộ nhiệm mầu mỗi ngày, không ngừng nghỉ trong hơn 100 ngày nơi đạo tràng viễn thông livestream qua facebook Trang Nhà Quảng Đức .

Con kính tri ơn Sư Phụ, vì hạnh nguyện hóa độ mà đem ánh sáng Phật Pháp sẻ chia cho hàng đệ tử chúng con trong mùa giản cách xã hội vì dịch cúm covid-19.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).




13_TT Thich Nguyen Tang_To Ca Ty Ma La


Phi Ngu Diệc Phi Trí !




Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về Tổ Ca Tỳ Ma La.

Bài pháp thoại tuyệt vời, với biện tài trác tuyệt

Thầy đã chỉ cho chúng con nẻo về ...hướng đúng vào ẩn hiện Pháp .

Kính đa tạ Thầy và kính chúc sức khoẻ Thầy, HH




Được Sư phụ Mã Minh truyền tâm pháp qua kệ :
Ẩn hiện vốn pháp này, 
Sáng tối nguyên không hai, 
Nay truyền pháp liểu ngộ, 
Không lấy cũng chẳng bỏ .
Giáo hoá khắp nơi ...Tây Ấn từ chối vào cung, 
"Thế lực Vua quan .... Sa môn chẳng thể nạp dung"
Thế Tử Vân Tự Tại giới thiệu ngọn núi thật vắng lặng!

Tại nơi ấy xuất hiện rắn dài hơn một dặm.
Biến thành cụ già kính lễ thưa rằng :
"Vốn Tỳ kheo do sân hận đoạ thân rắn ngàn năm "
Có lẽ ... gặp Thánh Tăng kiếp này dứt bặt .

Do duyên "Thầy đi tìm Trò " theo hướng Bắc
Dưới tàng cây ẩn  dật nhiều tài nhân 
Lãnh tụ đứng đầu ...Long Thọ nghĩ thầm :
"Không phải Chí Tôn ? Đã đạt đến Đạo Nhãn? "


" Tâm niệm ngươi ta biết rõ" Thánh phán ! 
Ngài Long Thọ sám hối tạ tội ....xuất gia 
Bậc kỳ vĩ ...ngộ ẩn hiện pháp ...Đạo bao la! 
Sau đó Tổ mười ba trình thần tịch diệt.


Đa tạ Giảng Sư : Còn đối đãi nhị biên phân biệt ! 
Thể tánh tịnh minh chẳng thể suy lường 
Phẩm cuối cùng  trong Tứ Thập nhị chương 
Phật dạy "Niệm, Ngôn, Hành, Tu, Chứng ...bất khả đắc"  ! 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/04/2013(Xem: 16623)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 7344)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 7374)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 10939)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7107)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5272)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 5986)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
04/04/2013(Xem: 5497)
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
04/04/2013(Xem: 6060)
Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng lẫn Phật tử tại gia.
04/04/2013(Xem: 5605)
Kinh A Di Đà (Phạn: Sukhàvatyamrta-vỳuha) còn gọi là kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Tiểu Vô Lượng Thọ, là một bản kinh ngắn của Phật giáo Bắc truyền, nhưng rất quan trọng đối với tín ngưỡng Tịnh độ, là một trong 3 bản kinh căn bản của tông Tịnh độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567