Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thập Nhị Tổ Ấn Độ Mã Minh ( Asvaghosha ) 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻

27/12/202018:01(Xem: 9596)
Thập Nhị Tổ Ấn Độ Mã Minh ( Asvaghosha ) 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻




Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài thứ 129 về Đệ thập nhị Tổ Mã Minh. Ngài Mã Minh rất làu thông kinh Vệ Đà, Ngài nghe nói có vị thánh tăng đến thành phố Ba La Nại (gần vườn Lộc Uyển nơi Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp luân, độ năm đệ tử đầu tiên xuất gia ). Ngài Mã Minh muốn đến gặp để chất vấn ngài thánh tăng này (tổ thứ 11, Phú Na Dạ Xa):

Ngài Mã Minh hỏi: Làm sao biết Phật?
Tổ Phú Na Dạ Xa đáp: Không biết là biết Phật.
Ngài Mã Minh hỏi: Không biết làm sao biết là Phật?
Tổ Phú Na Dạ Xa đáp: Không biết làm sao biết không phải là Phật.
Ngài Mã Minh nói: Nghĩa của Tổ là nghĩa cưa.
Tổ Phú Na Dạ Xa nói: Nghĩa của đệ tử là nghĩa cây.
Tổ Phú Na Dạ Xa nói tiếp: Thế nào, đệ tử nói nghĩa của tôi là nghĩa cưa?
Ngài Mã Minh đáp: Vì Tổ nói qua nói lại như cưa vậy.
Ngài Mã Minh nói tiếp: Thế nào Tổ nói nghĩa của tôi là nghĩa cây.
Tổ Phú Na Dạ Xa đáp: Vì cây bị cưa vậy. Thế nghĩa của con bị tôi phá rồi.


Ngài Mã Minh ngộ đạo, sụp lạy Sư Phụ và cầu xin xuất gia tu học, Tổ hoan hỷ tiếp nhận, về sau Tổ đã truyền tâm ấn chứng cho Ngài Mã Minh trở thành vị Tổ thứ 12.

Tổ Mã Minh (Asva-ghosha ), ra đời ở thành Ba La Nại cuối thế kỷ thứ 2 sau Tây lịch (khoảng 600 năm Phật vào Niết bàn), Ngài là nhà thơ, nhà văn và là 1 luận sư lừng danh của PG Đại thừa.

Ngài Mã Minh là một trong bốn vị luận sư Đại thừa nổi tiếng của Ấn độ (3 vị kia là Ngài Long Thọ, Ngài Vô Trước, Ngài Thế Thân).

Ngài để lại 10 tác phẩm cho đời, trong đó nổi tiếng là "Đại thừa khởi tín luận" tác phẩm phá tà hiển chánh, mở màn cho PG Đại Thừa và tập Trường Thi "Phật Sở Hành Tán" 1 tập thơ với 9000 câu viết về cuộc đời của Đức Thế Tôn, đây là tác phẩm văn học tiếng Phạn đầu tiên của Phật Giáo.

Sau khi được truyền pháp, Ngài đến Hoa Thị thành để giáo hoá.

Một hôm, đang lúc giảng pháp, có ngoại đạo đến phá khiến trời sấm sét, Ngài dùng thần thông, chỉ tay lên trời thì có một con rồng vàng xuất hiện, sau đó bầu trời yên tịnh.

Tuần sau, Ngài đang nói pháp có một con sâu dưới chỗ ngồi, Ngài bắt con sâu ra và con sâu hiện nguyên hình, một người tướng mạo rất đẹp. Vị này khai là người ngoại đạo, có ngũ thần thông, hóa thành con sâu để đến nghe trộm pháp, ông có thể biến ra đại dương bao la.

Tổ bảo ông hoá ra tánh biển, vị này không làm được. Tổ khai thị rằng "Tánh biển là núi sông đất đá, đều y cứ nơi đó mà sanh ra, tam muội lục thông cũng từ nơi ấy mà phát hiện ".

Sư Phụ giải thích "tánh biển" là "Tỳ Lô Tánh Hải", ví cho Phật tánh, chơn tâm, Như lai tạng... mọi thứ từ nơi đó mà lưu xuất.

Vị Ngoại đạo nghe pháp ấy, liền khởi lòng tin mạnh mẽ, cùng ba ngàn đệ tử đến xin Tổ xuất gia.

Tổ Mã Minh cung thỉnh 500 vị A La Hán đến truyền giới cho chúng đệ tử ngoại đạo này.


Tổ khai thị cho giới tử : " Thân tâm phải buông bỏ tất cả tà kiến trước đây để nhận giới pháp". Sư phụ có giải thích giới tử đắc giới thể phải hội đủ 3 điều kiện như sau:
1- giới đàn trang nghiêm
2- giới sư thanh tịnh (Giới đàn này có đến 500 vị A La Hán)
3- giới tử phải chí thành tha thiết cầu đạo để đắc giới thể.

Vị đệ tử ngoại đạo tên là Ca Tỳ Ma La chí thành tha thiết thọ giới pháp và lập tức được đắc giới thể. Trong giới đàn, tự thân ông có hào quang phát ra và hương thơm của giới lan tỏa ngào ngạt khắp giới đàn.

Ngay lúc đó, Tổ Mã Minh truyền pháp ấn chứng cho ngài Ca Tỳ Ma La làm Tổ thứ 13 với bài kệ:
"Ẩn hiện vốn pháp này,
Sáng tối nguyên không hai,
Nay truyền pháp liễu ngộ,
Không lấy cũng chẳng bỏ".

Truyền pháp xong, Tổ Mã Minh nhập định, viên tịch và lưu lại kim cang thân để chúng đệ tử tôn thờ.

Tổ để lại câu kệ rất sâu đậm nhưng rất đơn sơ với thông điệp "Không lấy cũng chẳng bỏ " (Phi thủ diệc phi khí). Nghĩa là: muốn giải thoát phải vượt lên trên nhị biên, chấp ngã, chấp pháp, chấp có, chấp không, chấp thường, chấp đoạn. "Không lấy" sau khi giác ngộ nên để lại chiếc bè bên bờ sông, chứ không cố giữ bên mình; "không bỏ" là dành cho đệ tử chưa giác ngộ, phải bám lấy giới pháp để mà tu mà chứng đắc.

Con kính tri ơn Sư Phụ mỗi ngày kiên trì ban truyền pháp thoại về chư vị tổ sư, rất kỳ đặc và siêu tuyệt, truyền ấn pháp diễn đạt Tâm Phật trong sáng thanh tịnh hằng luôn có trong tất cả chúng sanh, là nguồn tâm vô giá trong tự thân, để thoát ra khỏi biển khổ sanh tử luân hồi.


Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Cung kính và tri ơn Sư Phụ,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada).



12_TT Thich Nguyen Tang_To Ma Minh
Không biết thì làm sao
biết không phải là Phật ?


Con kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về Tổ Mã Minh ...
Ngài quá lỗi lạc nên chỉ biết tán dương và ngưỡng phục . Kính đa tạ Thầy lần thứ nhất con mới biết thêm
về thì phẩm Phật sở hành tán ..., biển pháp quá mênh mông, học hoài vẫn còn bao điều quá mới. Kính chúc sức khỏe Thầy , HH


Thi phẩm Sanskrit  trường ca “ PHẬT SỞ HÀNH TÁN”
Đưa Phật Giáo vào triết lý đỉnh cao văn chương
Ngài Mã Minh biện tài vô ngại ....phi thường 
Một trong bốn đại luận gia...Phật đã huyền ký ! 


Tổ mười một đánh đổ những phân biệt suy nghĩ ! 
"Không biết thì làm  sao biết không phải là ....
Ngài Mã Minh sụp lạy xin xuất gia 
Bốn câu kệ  ấn khả truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng 
                         Mê ngộ như ẩn hiện, 
                Tối sáng chẳng rời nhau, 
                  Nay trao pháp ẩn hiện, 
          Chẳng một cũng chẳng hai .


 Hoa Thị Thành ngọn đuốc pháp càng rực sáng !
Thần linh cung kính đảnh lễ báo tin, 
Nơi này ...Ngài độ chúng khỏi sinh tử ....vạn nghìn
Phấn khởi...dương oai thần phá tan  phép ngoại đạo!

Dưới bàn tọa, con sâu nép ...thu nhỏ dung mạo 
Ca Tỳ Ma La ngoại đạo trộm pháp biến hình, 
Hoá biển cả chẳng khó nhưng tánh biển...nín thinh! 
Truyền đạo pháp “ là núi, sông... tam muội do đây phát hiện ! 

Cùng ba ngàn đồ đệ thọ giới ....năm trăm thánh tăng chú nguyện 
Ca Tỳ Ma La được giới thể phát hào quang 
Hướng Bồ đề nối pháp....Đại Nhãn Tạng truyền sang
Tổ Mã Mình vào Chánh định hiện viên tịch !
Đại thừa Khởi tín luận ...tinh hoa tuyệt đích!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/04/2013(Xem: 16699)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 7380)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 7397)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 10951)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7114)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5277)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 6001)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
04/04/2013(Xem: 5516)
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
04/04/2013(Xem: 6077)
Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng lẫn Phật tử tại gia.
04/04/2013(Xem: 5611)
Kinh A Di Đà (Phạn: Sukhàvatyamrta-vỳuha) còn gọi là kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Tiểu Vô Lượng Thọ, là một bản kinh ngắn của Phật giáo Bắc truyền, nhưng rất quan trọng đối với tín ngưỡng Tịnh độ, là một trong 3 bản kinh căn bản của tông Tịnh độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567