Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

11.Tổ Phú-Na-Dạ-Xa ( Punyayasas ) 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻

27/12/202018:29(Xem: 14886)
11.Tổ Phú-Na-Dạ-Xa ( Punyayasas ) 💐🌼🌹🥀🌷🌸🏵️🌻





Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ
Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài thứ 128 về Tổ Phú Na Dạ Xa, là vị Đệ Thập Nhất Tổ theo dòng truyền thừa.

Ngài Đệ Thập Nhất tổ ra đời thế kỷ thứ năm sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết Bàn. Ngài có chí nguyện đi tu từ lúc nhỏ.
Ước nguyện của Ngài thành tựu khi Đệ thập tổ đến thuyết pháp nơi thành phố Ngài đang ở. Ngài Phú Na Dạ Xa đảnh lễ Tổ Đệ Thập Hiếp Tôn Giả và được Tổ cho xuất gia.

Tổ thứ 11 Phú Na Dạ Xa đến thành phố Ba La Nại giáo hoá, là nơi Đức Thế Tôn chuyển Pháp Luân khi Ngài thành đạo .

Ngài Phú Na Dạ Xa gặp một thanh niên đến thính pháp, Ngài có thiên nhãn biết tên của thanh niên này và sẽ là người nối truyền chánh pháp.

Người thanh niên vừa thấy Tổ thì đã bị khuất phục, đến đảnh lễ Tổ, và thưa hỏi Tổ :
- Thế nào là Phật, Tổ đáp: muốn biết Phật phải nương vào chỗ “không biết” để mà biết Phật.

Sư Phụ giải thích, ý của Tổ dạy rằng chúng ta hay nương vào “cái biết thường tình” của mình để biết là cái biết duyên theo pháp trần, vọng tưởng điên đảo (tri kiến lập tri, tức vô minh bổn), nên phải nương “không biết” là cái biết thật sự của mình để tìm đến Phật (tri kiến vô kiến, tư tức niết bàn).

Phật tánh, chơn tự tánh, thanh tịnh trong sáng luôn thường hằng bên trong của tất cả chúng sanh, không hình tướng, nhưng tỏa sáng, tự mình Biết, không Biết là do bị vô minh phiền não như áng mây che ánh sáng mặt trời.

Người thanh niên bị khuất phục, sụp lạy và được Tổ cho quy y xuất gia .

Người thanh niên ấy chính là ngài Mã Minh, về sau được Sư Phụ Phú Na Dạ Xa ấn chứng và truyền thừa làm Tổ thứ 12 của Phật Giáo Ấn Độ qua bài kệ:
Mê ngộ như ẩn hiển,
Minh ám bất tương ly,
Kim phó ẩn hiển pháp,
Phi nhất diệc phi nhị .

Sư Phụ giải thích bài kệ truyền pháp này :

Mê Ngộ như ẩn hiện
Tối sáng chẳng rời nhau
Nay trao pháp ẩn hiện
Chẳng một cũng chẳng hai
Hết Mê là Ngộ
Hết Tối là Sáng

Hơn 1000 năm sau, Lục tổ Huệ Năng cũng dạy đệ tử về ý này:

“Phiền não tức Bồ Đề
Sinh tử tức Niết Bàn”

Con kính tri ơn Sư Phụ giảng giải về dòng Pháp truyền thừa từ Sơ Tổ Ca Diếp đến ngài Đệ thập nhất tổ, Phú Na Dạ Xa.

Mỗi vị tổ xuất hiện một biệt thù bí ẩn, hành trạng độ sanh quá tuyệt vời, trí tuệ biện giải quá siêu xuất, quý ngài đã ban cho chúng sanh phàm phu chúng con những pháp vị giải thoát giúp cho đệ tử chúng con nhận ra Tâm Phật hằng có bất biến bên trong mà chúng con lâu nay quên lãng, nay được nghe, được hiểu, được từng bước khám phá ra kho báu này.

Chúng con quá sức may mắn được Sư Phụ ban cho pháp vị nhiệm mầu mỗi ngày nhất là trong mùa cách ly vì đại dịch Covid 19 này.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính và tri ơn Sư Phụ,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
( Montréal, Canada).




11_TT Thich Nguyen Tang_To Phu Na Da Sa



Mê, Ngộ bất tương ly !


Kính dâng Thầy bài thơ trình pháp về Tổ thứ mười một Phú Na Dạ Xa.
Kính đa tạ Thầy, nguyện sẽ bỏ chấp ngã vì ngộ sắc ngộ thanh như hoa trên đá ....
con đã nghe đi nghe lại hoài không chán . Kính, HH 




Tha tâm thông, túc mệnh thông nhắc đến trong pháp thoại 
Thập Tổ  tiên đoán có Thánh Nhân khi đất hoá vàng, 
Lập tức Phú Na Dạ Xa xuất hiện lẹ làng 
Sư Phụ biết ý đã cho xuất gia thọ giới 

Là người thông minh, học mau tấn tới 
Sư Phụ truyền kệ trao Chánh Pháp Nhãn tạng như sau:
      Chơn thể đã sẵn chơn,
      Bởi chơn nói có lý,
    Hội được pháp chơn nhơn,
    Không đi cũng không dừng .

Nên đạo đức trọng trách giáo hoá rất cao
Ngàn vạn người có đến năm trăm chứng Thánh 

Thành Ba La Nại nhắc lời Phật  huyền ký về túc mạng,  
Nhân vật xuất hiện nêu rõ ....tên Mã Minh 
Sư Phụ chỉ trò đừng có mạn khinh, 
Nghĩa cưa đã bị nghĩa cây .... nhân của... Xẻ !

Vị trưởng giả mừng vui được thắng nghĩa ...lặng lẽ 
Thông điệp Ngài muốn gửi lại chúng sinh 
Hãy tìm Phật Tánh ẩn hiện trong vô  minh
Mê, Ngộ bất tương ly là như thế ! 

Đa tạ Giảng Sư ... một chuyện Bách Dụ được kể !
Cùng bao thuật xử thế trong dân gian 
Đừng nương gá vào sắc, thanh. ...bình an, 
Nguyện kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết (*)

Bài pháp thoại giúp con bỏ...... tâm sanh diệt 
Kính đa tạ và tri ân Thầy ! 

Nam Mô A Di Đà Phật
Huệ Hương 


____________
(*) Con cảm ơn TT Giảng Sư đã đọc lại cho chúng đệ tử nghe
2 câu thơ lừng danh của Thiền Sư Phù Dung: 

Kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết

Ngộ sắc ngộ thinh như thạch thượng tài hoa.


Có nghĩa là:
"Thấy lợi thấy danh như bụi rơi vào tròng con mắt.

Gặp sắc nghe tiếng cũng như trồng hoa trên tảng đá"



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 17897)
Ở đây nên ghi thêm về 2 điều. Một là kinh này liên hệ Pháp hoa. Hai là kinh này liên hệ Khởi tín. Kinh này không công nhận nhị thừa có niết bàn. Ngay tư tưởng hệ tứ đế, nhị thừa cũng chưa thấu hiểu tận cùng. Nhưng nhị thừa có khả năng xoay về đại thừa, tin mà nhập được đại thừa
08/04/2013(Xem: 18035)
Bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng: Ăn Chay là một Pháp tu An Cư Kiết Đông kỳ 15 (2014) Bồ Tát Chuẩn Đề Bố Thí & Cúng Dường (giảng chung với ĐĐ Viên Tịnh) Cam Lồ (chương trình phát thanh) Chánh Kiến Chánh Ngữ Chùa Phật Tổ Chùa Từ Bi Công Đức Lễ Phật Cuộc đời của Đức Phật Đại Trí - Đại Hạnh Đại Hội Khoáng Đại kỳ 5 (trả lời phỏng vấn đài VOA) Đạo Tràng Liên Trì Bồ Tát Chuẩn Đề Chánh Kiến Chánh Ngữ Chùa Phật Tổ Chùa Từ Bi Chú Lăng Nghiêm (phỏng vấn HT Huyền Tôn) Công Đức Lễ Phật Cuộc đời của Đức Phật Đại Trí - Đại Hạnh Đạo Tràng Liên Trì Giới thiệu Lương Hoàng Sám Hành Trạng Bồ Tát Quán Thế Âm Hôn Nhân Dị Giáo (giảng chung với HT Như Điển) Khai mạc khóa tu Kinh Phước Đức Kinh Địa Tạng Kinh Na Tiên Tỳ Kheo (giảng chung với HT Bảo Lạc) Kinh Chân Hạnh Phúc Luân Hồi & Tái Sinh Lục Độ Lục hòa Lục Độ Ba La Mật (giảng chung với TT Phổ Hương) Mắt Thương Nhìn Đời Mười hạnh tu của Bồ Tát Phổ Hiền Mừng Xuân Ất Dậu 2005 Nhân quả và nghiệp
08/04/2013(Xem: 37255)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
05/04/2013(Xem: 18542)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 8495)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 8173)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 11779)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7822)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5886)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 6674)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]