Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới thiệu Kinh Giải Thâm Mật

04/04/201312:32(Xem: 5992)
Giới thiệu Kinh Giải Thâm Mật

Giới thiệu Kinh Giải Thâm Mật

Thích Nữ Như Ðiền

Nguồn: Hoàng Sám Hoa. Thích Nữ Như Ðiền dịch (trích từ Phật giáo Trung Quốc tập 3)

Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch :

1. Trong khoảng thời gian niên hiệu Nguyên Gia đời Lưu Tống (424-453), Ngài Cầu Na Bạt Ðà La người Trung Ấn Ðộ, dịch tại chùa Ðông An huyện Giang Ninh, Nhuận Châu, gọi là "Tương tục giải thoát liễu nghĩa kinh", một quyển, chỉ có hai phẩm cuối.

2. Niên hiệu Diên Xương thứ ba đời Ngụy (514), Ngài Bồ Ðề Lưu Chi người Bắc Ấn Ðộ, dịch tại chùa Thiếu Lâm, Lạc Dương, gọi là "Thâm mật giải thoát kinh", năm quyển, chia làm 11 phẩm.

3. Niên hiệu Thiên Gia thứ hai đời Trần (561), Ngài Chân Ðế người Tây Ấn Ðộ, dịch tại chùa Kiến Tạo, tên là "Giải tiết kinh", một quyển, chỉ có hai phẩm đầu mà chia nhỏ làm 4 phẩm.

Ngoài ra còn có bản dịch Tây Tạng.

Giải Thâm Mật tiếng Phạn là Sandhi-nirmocara, dịch âm là San địa niết mô chiết na. Căn cứ "Giải Thâm Mật kinh sớ" của Viên Trắc, "Thành Duy thức luận diễn bí" (cuối quyển ba) của Trí Châu, "Du Già Sư Ðịa luận ký" (quyển thượng 20) của Ðộn Luân, đều nói "San địa" có ý nghĩa là "chư vật tương tục (các vật nối nhau)", "cốt tiết tương liên (đốt xương liền nhau)", "thâm mật (sâu kín)" v. v... Tên của các bản dịch, đều dùng một ý trong đó, mà tên bản dịch đời Ðường thì hay hơn hết.

Bộ kinh này giải thích thâm nghĩa cảnh, hành, quả của đại thừa, chia làm 8 phẩm : Phẩm một là tự phần, bảy phẩm còn lại là chánh tông phần. Lại bảy phẩm chánh tông có thể nhiếp làm ba loại : Bốn phẩm đầu nói rõ caûnh sở quán, hai phẩm kế là phân biệt hạnh năng quán, phẩm sau cùng hiển thị quả sở đắc. Nội dung sơ lược như sau :

1. "Tự phẩm" : Tường thuật công đức thù thắng của Ðức Phật và cõi Phật thù thắng trang nghiêm, cùng với vô lượng Bồ tát và Ðại Thanh văn cóù thể hiểu thâm nghĩa mật nghĩa.

2. "Thắng nghĩa đế tướng phẩm" : Giải thích thắng nghĩa đế tướng lìa ngôn ngữ lìa phân biệt, vượt qua tất cả suy nghĩ và tất cả pháp không phải một khoâng phải khác, mà phổ biến trong tất cả pháp bình đẳng một vị, tức ly ngôn pháp tánh, cũng tức là chư pháp thật tướng.

3. "Tâm ý thức tướng phẩm" : đối với thế tục đế tường thuật thể tướng của tám thức (tâm ý thức). Thuyết minh A lại da thức sanh diệt tương tục, là nguồn gốc sanh diệt, cùng với các tên và sự sai biệt của thức này. Cho đến các tướng sanh khởi của nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

4. "Nhất thiết pháp tướng phẩm" : Tổng quát thể tướng tất cả các pháp chia làm ba loại tự tánh là biến kế sở chấp, y tha khởi, viên thành thực, để thuyết minh tất cả pháp tướng nhiễm tịnh.

5. "Vô tự tánh tướng phẩm" : Nói rõ tất cả chư pháp đều không có tự tánh, tức y theo ba loại tự tánh lập ba loại vô tánh. Trong đó biến kế sở chấp tánh tướng là nương theo giả danh mà thiết lập, tức là tướng vô tánh. Y tha khởi tướng là nương theo các duyên sở sanh, tức là sanh vô taùnh. Viên thành thực tướng là thắng nghĩa đế của tất cả pháp, là chỗ hiển lộ của tất cả pháp vô ngã, tức là thắng nghĩa vô tánh. Thanh văn, Ðộc giác, Bồ tát ba loại hữu tình đều do con đường vô tự tánh thanh tịnh vi dieäu duy nhất này, chứng đắc vô thượng Niết bàn, do đây mật ý nói "chỉ có nhất thừa", nhưng trong đó cũng có sự sai khác của độn căn, trung căn, lợi căn. Vì thế, Ðức Thế Tôn thuyết pháp, có ba thời không giống nhau. Thời đầu tiên chỉ vì những người có xu hướng Thanh văn thừa, dùng tướng tứ đế chuyển chánh pháp luân, là chưa liễu nghĩa. Thời thứ hai vì những người có xu hướng tu đại thừa, căn cứ đạo lý tất cả pháp đều vô tự tánh, dùng tướng ẩn mật mà chuyển chánh pháp luân, vẫn chưa liễu nghĩa. Thời thứ ba ở đây khắp vì những người có xu hướng nhất thiết thừa, căn cứ đạo lý tất cả pháp đều vô tự tánh, dùng tướng hiển hiện minh bạch mà chuyển chánh pháp luân, là chân liễu nghĩa.

6. "Phân biệt Du Già phẩm" : Thuyết minh các nghĩa tướng tu Xa ma tha (chỉ), Tỳ bát xá na (quán) trong phép tu Du Già, hiển thị diệu hạnh Duy thức chỉ quán, chứng minh các pháp do thức biến hiện, mà phân biệt các hành tướng định huệ đó.

7. "Ðịa Ba la mật đa phẩm" : Nói về danh nghĩa Bồ tát thập địa cho đến Phật địa thứ 11, và chỗ phải học của Bồ tát là lục độ Ba la mật : Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ (Bát nhã), mà do trí huệ Ba la mật là có thể lĩnh hội ý nghĩa chư pháp vô tự tánh.

8. "Như Lai thành sở tác sự" : Nói về công đức viên mãn của hóa thân và pháp thân của Như Lai, nói rõ ý liễu nghĩa việc làm của Như Lai ï.

Chú giải bộ kinh này (bản dịch đời Ðường), có "sớ" của Viên Trắc, mười quyển, nay còn 9 quyển, "chú" của Ðộn Luân năm quyển. Ngoài ra còn có "sớ" của Linh Nhân mười một quyển, "sớ" của Huyền Phạm mười quyển, "sớ" của Nguyên Hiểu ba quyển, "sớ" của Cảnh Hứng vài quyển v. v... đều đã thất truyền. Bản dịch của Ðại sư Chân Ðế có "Giải tiết kinh sớ" do chính Ngài soạn, cũng đã thất truyền, nhưng một bộ phận sớ của Ngaøi được thấy rải rác trong "sớ" của Viên Trắc. Ðược Nội học viện Trung Quốc biên tập thành "Giải Tiết kinh Chân Ðế nghĩa" một quyển.

Ngoài ra, bản dịch Tây Tạng có :

1. "Giải Thâm Mật lược thích" : Vô Trước soạn, Thắng Hữu dịch, 220 bài tụng, không đủ một quyển.

2. "Giải Thâm Mật kinh quảng thích" : thất truyền, Tây tạng cựu kinh lục nói là 40 quyển, Long Tràng soạn.

3. "Giải Thâm Mật kinh đại sớ" : tức bản "sớ" của Viên Trắc, Hán Thành dịch, 75 quyển. Bản Hán văn "sớ" của Viên Trắc nay thiếu sáu quyển sau, bản dịch Tây Tạng hoàn toàn đầy đủ 6 quyển sau. Các năm gần đây do Pháp sư Quán Không dịch từ tiếng Tạng sang lại tiếng Tàu, tên là "Giải Thâm Maät kinh sớ", do Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc ấn hành.

Do toàn văn 7 phẩm chánh tông của bộ kinh này được trích dẫn trong "Du Già sư địa luận", lại "Thành Duy thức luận" cũng trích dẫn bộ kinh này, do đó mà biết bộ kinh này ở Ấn Ðộ là kinh điển quan trọng của phái Du Già. Sau khi bộ kinh này được dịch sang tiếng Tàu, tông Từ AÂn y theo "Vô tự tánh tướng phẩm" của bộ kinh này, phán đoán giáo pháp của Ðức Phật, chia làm tam thời giáo : hữu, không, trung đạo, và y theo "Tâm ý thức tướng phẩm" và "Nhất thiết tướng phẩm" của bộ kinh này và lấy tam tánh thuyết và duy thức thuyết làm giáo nghĩa căn bổn của tông mình.

Phật học viện Mân Nam – Hạ Môn - Trung Quốc
Ngày 15.7.2002

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 34025)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
05/04/2013(Xem: 16624)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 7347)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 7377)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 10940)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7108)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5272)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 5498)
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
04/04/2013(Xem: 6061)
Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng lẫn Phật tử tại gia.
04/04/2013(Xem: 5605)
Kinh A Di Đà (Phạn: Sukhàvatyamrta-vỳuha) còn gọi là kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Tiểu Vô Lượng Thọ, là một bản kinh ngắn của Phật giáo Bắc truyền, nhưng rất quan trọng đối với tín ngưỡng Tịnh độ, là một trong 3 bản kinh căn bản của tông Tịnh độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567