Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

191. Thiền Sư Ma Cốc Bảo Triệt Đời thứ 3 sau Lục Tổ Huệ Năng (Là đệ tử đắc pháp của thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất)

28/11/202016:31(Xem: 15661)
191. Thiền Sư Ma Cốc Bảo Triệt Đời thứ 3 sau Lục Tổ Huệ Năng (Là đệ tử đắc pháp của thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất)




Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài thứ 191 trong thời gian cách ly đại dịch Covid-19 về Thiền Sư Ma Cốc Bảo Triệt.
Ngài thuộc đời thứ ba sau Lục Tổ Huệ Năng, là đệ tử đắc pháp của Thiền Sư Mã Tổ Đạo Nhất, và đặc biệt ngày sanh và ngày viên tịch không được biết.

Chúng con chỉ biết giai đoạn Ngài đến học pháp và hầu cạnh Mã Tổ. Một hôm đi ngang qua hồ nước, Ngài Bảo Triệt hỏi Sư phụ Mã Tổ :”thế nào là Đại Niết Bàn”

Mã Tổ nói :”gấp”
Ngài Bảo Triệt thưa hỏi :”gấp là gì”.
Mã Tổ chỉ xuống hồ nước, ngài Bảo Triệt thoát nhiên đại ngộ và sụp lạy đảnh lễ Mã Tổ.

Sư phụ giải thích nước luôn động vì có sóng, nhưng tánh thấy của ngài Bảo Triệt thì tĩnh lặng, ngài không chạy theo duyên pháp động của nước, tức là không bị ngoại cảnh chi phối, tâm ngài vẫn tịch nhiên dù cho Sư phụ bảo nhìn xuống hồ nước, ngay đó ngài đã liễu ngộ.

Sư Phụ giải thích thêm về ý nghĩa "Đại Niết Bàn". Quý sư Nam Tông phát âm là Níp-Bàn (Nibbana), gần giống âm của nguyên ngữ Pali, trong khi Phật giáo Bắc Tông đọc là Niết-Bàn, phiên âm nguyên ngữ Sanskrit (Nirvana).

Nghĩa đen của Niết bàn là:  Nir: ra khỏi, xa lìa, ly khai, vana: rừng rậm, dơ bẫn, con đường vòng vo... Niết bàn có nghĩa là hành giả đã ly khai , ra khỏi rừng rậm của phiền não, vô minh, tham ái; chấm dứt con đường vòng vo của luân hồi sanh tử khổ đau.

Sư phụ giải thích chi tiết về ý nghĩa Niết bàn, có 4:
 1/Hữu-dư Niết-bàn: là Niết-bàn của bậc Thánh Alahan đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não, nhưng thân ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
 1/Vô-dư Niết-bàn: là Niết-bàn của bậc Thánh A La Hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não, và đã viên tịch, không còn thân ngũ-uẩn nữa.

3/Niết Bàn Tự Tánh: Niết Bàn tự tánh sẵn có trong mọi chúng sanh, nó vốn sẵn có tánh Niết Bàn không phải tu tập mới có. Như mặt trăng, tánh vốn tròn và sáng, không phải đợi hết mây mới trăng.
4/Niết Bàn Vô Trụ Xứ: Niết Bàn ở khắp mọi nơi, chư vị Bồ Tát khi giác ngộ, biến nhập trần lao để giáo hóa chúng sanh, lấy sự sanh tử của chúng sanh làm cảnh giới Niết bàn của bản thân.
Sư phụ cũng kể chuyện Đức Thế Tôn giải thích ý nghĩa Niết Bàn là "củi hế lửa tắt". Củi là năng lượng tham ái, đưa chúng sanh vào cõi giới sanh tử luân hồi. Lửa tắt là Niết Bàn là thanh lương, mát mẻ, giải thoát.

Bạch Sư Phụ, nhờ SP giải thích hôm nay con mới rõ nghĩa chữ Niết Bàn, quá hay, quá vi diệu. Con kính tạ ơn Sư Phụ.

Sau khi ngộ đạo, TS Bảo Triệt cùng với huynh đệ là TS Nam Truyền, TS Quy Tông đến núi Cảnh Sơn, giửa đường gặp một bà lão chủ quán, TS Bảo Triệt hỏi đường lên núi, Bà lão trả lời là đi thẳng. Sau đó, ba vị TS vào quán ngồi. Bà lão đem 3 chén trà và nói :”quý ngài có thần thông thì mời uống trà”
Bà lão không thấy trả lời, nên rót trà rồi bỏ đi.
Sư phụ giải thích, ở trong nhà thiền, nấu trà, pha trà, nấu cơm, gánh nước là cái dụng lưu xuất từ bản thể chân như, an trú trong vô niệm, là thần thông. Bà lão tuy bán nước nhưng đã ngộ thiền rất sâu, nên khi TS Bảo Triệt hỏi bà ở đâu, bà trả lời "ở trong ấy". Sư phụ giải thích "ở trong ấy" là trong trạng thái bất sanh bất diệt, bà đã đạt thần thông diệu dụng. Hình ảnh bà già bán nước trong câu chuyện này là niềm lạc quan cho tất cả Phật tử chúng ta, ai chịu tu tập đều chứng đắc giải thoát, không phân biệt người xuất gia hay tại gia.

Thiền Sư Bảo Triệt cùng với TS Đơn Hà đến núi Ma Cốc, TS Bảo Triệt quyết định dừng lại, từ đó Ngài có tên là TS Ma Cốc Bảo Triệt. Đồ chúng đến tu học rất đông, trong đó có đệ tử đến từ Triều Tiên.

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được Sư phụ ban cho một bài pháp thanh thoát, nhẹ nhàng về Thiền Sư Ma Cốc Bảo Triệt, cuộc đời của Ngài đơn giản không ngày sanh, không ngày ra đi. Đến nay Sư Phụ đã ban cho được 191 bài pháp, trong đó có nhiều vị Thiền Sư biểu hiện thể tánh đạt đạo thần thông diệu dụng khác nhau nhưng cùng một điểm đến là giải thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử triền miên của vạn loài chúng sanh.



Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Cung kính,

Đệ tử Quảng Tịnh Tâm

(Montreal, Canada)





191_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Bao Triet
 
Phật Pháp bất đẳng cao hạ.
Thần thông diệu dụng : châm trà, nấu nước ! 

Kính dâng Thầy và các đạo hữu nghe pháp hôm nay về Thiền Sư Ma Cốc Bảo Triệt,
bài thơ đúc kết những diệu nghĩa mà con đã lãnh hội . Kính đa tạ và tri ân Thầy, HH



Học  hành trạng  Thiền Sư Ma Cốc Bảo Triệt 
Đệ tử đác pháp của Mã Tổ Thiền Sư 
Thế nào là Đại Niết Bàn...tịch tĩnh chân như ?
Hoắc nhiên đại ngộ ... Gấp ! và xem nước !!

Cuộc đời Ngài giăn đơn nhưng hữu phước!!
Vô Nhiễm đệ tử ... môn phái” Thánh Trú Sơn Thiên “
Phật pháp tiếp tục hưng thịnh đất nước Triều Tiên !
Và câu chuyện hội ngộ bà già bán trà nước !

Đồng  hành ba đại sư dù hết phiền trược
Thần thông không thể tự ý diễn bày, 
Phật pháp bình đẳng không cao, hạ ...  là đây
Nấu trà, châm trà, mời khách “tâm bình thường là Đạo “

Giảng Sư giải thích bốn nghĩa Niết Bàn tuyệt hảo !!
Nguyên Thuỷ chỉ có  ,,,Hữu dư y và Vô Dư Y !
Đại Thừa  thời thời Chánh niệm  để giác tri :
Tự Tánh Thanh Tịnh Niết Bàn và Vô Trú Xứ !!

Trân quý thay những mẫu chuyện Thiền còn lưu trữ !!!

Huệ Hương 
28/11/2020






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 17922)
Ở đây nên ghi thêm về 2 điều. Một là kinh này liên hệ Pháp hoa. Hai là kinh này liên hệ Khởi tín. Kinh này không công nhận nhị thừa có niết bàn. Ngay tư tưởng hệ tứ đế, nhị thừa cũng chưa thấu hiểu tận cùng. Nhưng nhị thừa có khả năng xoay về đại thừa, tin mà nhập được đại thừa
08/04/2013(Xem: 18059)
Bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng: Ăn Chay là một Pháp tu An Cư Kiết Đông kỳ 15 (2014) Bồ Tát Chuẩn Đề Bố Thí & Cúng Dường (giảng chung với ĐĐ Viên Tịnh) Cam Lồ (chương trình phát thanh) Chánh Kiến Chánh Ngữ Chùa Phật Tổ Chùa Từ Bi Công Đức Lễ Phật Cuộc đời của Đức Phật Đại Trí - Đại Hạnh Đại Hội Khoáng Đại kỳ 5 (trả lời phỏng vấn đài VOA) Đạo Tràng Liên Trì Bồ Tát Chuẩn Đề Chánh Kiến Chánh Ngữ Chùa Phật Tổ Chùa Từ Bi Chú Lăng Nghiêm (phỏng vấn HT Huyền Tôn) Công Đức Lễ Phật Cuộc đời của Đức Phật Đại Trí - Đại Hạnh Đạo Tràng Liên Trì Giới thiệu Lương Hoàng Sám Hành Trạng Bồ Tát Quán Thế Âm Hôn Nhân Dị Giáo (giảng chung với HT Như Điển) Khai mạc khóa tu Kinh Phước Đức Kinh Địa Tạng Kinh Na Tiên Tỳ Kheo (giảng chung với HT Bảo Lạc) Kinh Chân Hạnh Phúc Luân Hồi & Tái Sinh Lục Độ Lục hòa Lục Độ Ba La Mật (giảng chung với TT Phổ Hương) Mắt Thương Nhìn Đời Mười hạnh tu của Bồ Tát Phổ Hiền Mừng Xuân Ất Dậu 2005 Nhân quả và nghiệp
08/04/2013(Xem: 37323)
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam ta đã trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Ðạo Phật. Dân chúng thường nói "Ðạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...".
05/04/2013(Xem: 18561)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 8563)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 8194)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 11801)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7835)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5889)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 6678)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]