Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

157. Thiền Sư Hy Thiên Thạch Đầu (695 - 785) (Người đặt nền móng cho Thiền Phái Tào Động)

29/11/202017:21(Xem: 9103)
157. Thiền Sư Hy Thiên Thạch Đầu (695 - 785) (Người đặt nền móng cho Thiền Phái Tào Động)


Nam mô A Di Đà Phật

Kính bạch Sư Phụ

Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Hy Thiên Thạch Đầu.

Lúc mẹ Ngài mang thai Ngài, mẹ Ngài chỉ ăn chay. Đến tuổi thiếu niên, Ngài thấy dân làng giết bò để làm lễ tế thần, Ngài liền đập phá miểu thần không chút sợ hãi để chấm dứt trò sát hại sanh mạng để cúng tế.

Ngài đến xin xuất gia với Lục Tổ. Lúc Lục Tổ sắp viên tịch, Ngài vẫn còn là Sa Di chưa đắc pháp, Lục Tổ khuyên Ngài hãy đến theo học với Sư huynh Hành Tư.
Sư phụ kể chuyện này như sau: sau khi Lục Tổ viên tịch, Ngài thường ngồi bên Tháp của Tổ u buồn, một sư huynh hỏi thăm Ngài sao ngồi hoài bên tháp của Lục Tổ, Ngài cho biết là Lục Tổ có dạy Ngài nên "tầm tư" (có nghĩa là trầm tư mặc tưởng), Sư huynh giải thích "tầm tư", có nghĩa là nên đi tìm và tham học với Thiền Sư Hành Tư là trưởng tử của Lục Tổ. Ngài Hy Thiên lên đường đến núi Thanh Nguyên đảnh lễ TS Hành Tư.

Tổ Hành Tư hỏi :”từ Tào Khê đến có đem gì theo”.
Ngài thưa :”con chưa đến Tào Khê mà cũng chẳng mất”.
Tổ nói :”con mặc tình dùng đi, tới Tào Khê làm gì”.
Ngài thưa :”nếu không đến Tào Khê thì đâu biết chẳng mất”.

Sư Phụ giải thích “chẳng mất” là bản tâm nhờ đến Tào Khê mới ngộ bản tâm này.
Tổ Hành Tư hỏi :”có biết ta là ai không?”
Ngài thưa :”Biết, lại đâu chẳng biết được”.

Sư Phụ giải thích Biết là biết sự chứng đắc bên trong của Tổ.

Tổ Hành Tư thầm ấn chứng cho ngài Hy Thiên, đến năm 20 tuổi Ngài được thọ giới Cụ Túc.

Về sau, Ngài Hy Thiên đến Đại Nam Tự, cất một am tranh trên một tảng đá cao để tọa thiền nên Ngài được gọi là Hy Thiên Thạch Đầu.

Ngài khai giảng pháp: "Cần đạt Tri kiến Phật, Tri là Biết, Kiến là Thấy Biết và Thấy bản Tâm của mình là Tánh Giác, là Phật tánh.


Ngài có làm bài kệ :
“Tôi cất am tranh không của báu
Ăn xong thong thả ngủ ngon lành
Khi thành nhìn thấy rõ tranh xanh
Lúc hỏng lại tìm cỏ tranh lợp
Người chủ am mãi vẫn còn”.

Sư Phụ giải thích “am tranh” là chỉ cho thân ngũ uẩn.
“Ăn xong thong thả ngủ ngon lành” tâm bình an là thị đạo.

“Người chủ am mãi vẫn còn” là Tánh Giác luôn tự có bên trong thân ngũ uẩn của tất cả chúng sanh.

Con kính tri ơn Sư Phụ, trong mùa cách ly đại dịch Covid-19 mỗi ngày Sư phụ đều tận tuỵ biên soạn trao truyền cho chúng con dòng pháp nhủ đầy lợi lạc từ các vị Tổ.

Cung kính,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm
(Montréal, Canada)



112_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Hy Thien
Thạch Đầu
đường trơn dễ té nhào !


Kính dâng Thầy và quý bạn hữu nghe pháp thoại bài thơ về Thiền Sư Hy Thiên Thạch Đầu, 

một bài pháp thoại quá tuyệt vời qua sự trác tuyệt của Giảng Sư. Kính đa tạ, HH


"Thảy đều trong ấy, trọn không thiếu việc lạ " 
Trưởng  Sư Huynh, nay Sư Phụ ấn chứng truyền trao.
Danh tiếng đường  trơn, không bản lĩnh dễ té nhào
Tên gọi .... Thạch Đầu, thảo am trên chóp núi!

Thuở  nhỏ dũng cảm ....từng vào  phá miếu, 
Lên án hành động, tế lễ giết hại súc sanh.
Người người ngợi khen giới hạnh thiện lành,  
Thông minh khí phách, đạo phong trác tuyệt ! 

Thượng đường " Tri kiến Phật tức là Thấy,  biết " 
Thể Tâm linh, lìa tánh ĐOẠN, THƯỜNG,  
Nam Nhạc thần linh, đến học  rõ tường 
Kính xin Tôn sinh ...  cho thọ  quy giới ! 

Nhờ  ba đệ tử giỏi, Tào Động  nền tảng ...khởi! 
Nhiều đời kế tiếp  ...nối pháp đến thời nay 
"Hư không dài không ngại mây trắng bay"
Bài ca Thảo Am,  và trước tác ĐỒNG THAM KHẾ
Hoá chủ Hồ Nam, Vua ban Đại Sư Vô Tế !!!!

Đa tạ Giảng Sư dạy: "đừng bị  ràng buộc" Ngài đã kể, 
Câu chuyện nho sinh vì câu đối phải thành ma 
Kính xin tri  ân ghi lại ....đó chính là : 
" Hỏa tại thach trung trầm tích thủy, thiên niên bất tuyệt !
Nguyệt lai thiên không chiếu nhân gian, vạn cổ trường tồn ! 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/04/2013(Xem: 16724)
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài suy nghĩ rằng: "Con đường ly dục là con đường tốt nhất để đạt được sự thanh tịnh. An trú trong đại thiền định mới hàng phục được chúng ma". Ở tại vườn Lộc Uyển, Ngài chuyển bánh xe pháp về 4 chân lý độ cho 5 anh em Kiếu Trần Như đều chứng được đạo quả.
04/04/2013(Xem: 7398)
Giới thiệu: Trong bài kinh nầy, Đức Phật tóm tắt các điều cần yếu của một cư sĩ Phật tử: thọ trì Tam Quy (Phật-Pháp-Tăng), thực hành Ngũ Giới, và sống theo tinh thần "tự lợi, lợi tha", giúp cho bản thân được thăng tiến và đồng thời cũng giúp đỡ, khuyến khích người khác cùng được thăng tiến trong Chánh Pháp.
04/04/2013(Xem: 7412)
A-hàm còn gọi là A-cấp-ma, A-hàm-mộ. Hán dịch : Pháp quy, nghĩa là nơi quy thú của muôn pháp (Bài tựa KINH TRƯỜNG A-HÀM), còn dịch là "Vô tỷ pháp", nghĩa là pháp tối thượng (PHIÊN DỊCH DANH NGHĨA TẬP 4), cũng dịch là "giáo", là "truyền", nghĩa là giáo pháp được lần lượt truyền trao nhau (NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA 24)
04/04/2013(Xem: 10971)
Kinh A Di Đà là một bản kinh rất phổ biến được truyền tụng hàng ngày trong đời sống đạo của Phật tử ở các nước Viễn Đông châu Á, nhất là ở Việt Nam. Vị trí của kinh luôn luôn được xây dựng trên căn bản của niềm tin; và trong lòng người hành trì, kinh chính là con đường dẫn đến thế giới Tịnh độ - một thế giới không có khổ đau, không có sinh lão bệnh tử, thế giới của niềm phúc lạc vô biên.
04/04/2013(Xem: 7140)
1. Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa (Phạn ngữ: Mahà-Prajnàpàramità- Sùtra) là bộ kinh vĩ đại nhất của Phật giáo Bắc truyền, xét về số lượng cũng như diệu lý. Kinh gồm 600 quyển, chiếm tới 3 tập với 3.000 trang in khổ lớn của Đại Tạng Kinh Đại Chính Tân Tu (ĐTK/ĐCTT, No 220, các tập 5,6,7), do Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng (602-664) dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán.
04/04/2013(Xem: 5292)
Vaisâli (Tỳ-da-li), thủ phủ của Vajji (Bạt-kỳ), một cường quốc theo chế độ cộng hòa thị tộc của người Vajji, mà các lân bang quen gọi là Licchavì, là một đô thị phát triển trù phú thời đức Thích Tôn tại thế, và những người Licchavì giàu có, vinh quang, được ví như các thiên thần cõi trời Ðao-lợi (Trayastrimsa).
04/04/2013(Xem: 6020)
Kinh Giải Thâm Mật gồm năm quyển do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch tại chùa Hoằng Phúc niên hiệu Trinh Quán thứ 21 (năm 647) đời Ðường. Tương truyền bản tiếng Phạn bộ kinh này có mười vạn bài tụng, bản dịch hiện nay là bản lược dịch có một ngàn năm trăm bài tụng, chia làm 8 phẩm. Trước đó, quyển kinh này đã có ba bản dịch
04/04/2013(Xem: 5528)
Kinh Hoa Nghiêm, gọi đủ là Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, là bộ kinh điển trọng yếu hiển bày ý nghĩa tuyệt vời về nhân hạnh quả đức của Phật-đà như tạp hoa trang nghiêm rộng lớn viên mãn, vô tận vô ngại, qua các vị Bồ-tát lớn Phổ Hiền, Văn-thù, sau khi Phật thành đạo tại các nơi như Bồ Đề Tràng v.v…
04/04/2013(Xem: 6090)
Kinh Pháp Hoa là một trong những bộ kinh lớn của hệ thống Kinh tạng Đại thừa Phật giáo, được các học giả phương Tây cho là 1 trong 20 Thánh thư phương Đông. Sự hành trì tụng niệm một cách sâu rộng và bền bỉ của Phật tử đối với Kinh Pháp Hoa cho thấy rằng đây là một bộ kinh đặc biệt về cả hai mặt triết lý và huyền bí. Ở Việt Nam, Kinh Pháp Hoa được trì tụng hàng ngày như một thời khóa tu học kể cả chư tăng lẫn Phật tử tại gia.
04/04/2013(Xem: 5626)
Kinh A Di Đà (Phạn: Sukhàvatyamrta-vỳuha) còn gọi là kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm, kinh Tiểu Vô Lượng Thọ, là một bản kinh ngắn của Phật giáo Bắc truyền, nhưng rất quan trọng đối với tín ngưỡng Tịnh độ, là một trong 3 bản kinh căn bản của tông Tịnh độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567