Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. So sánh tóm tắt các bộ Luật Tỳ-khưu

02/02/201111:04(Xem: 11532)
20. So sánh tóm tắt các bộ Luật Tỳ-khưu

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

Sosánh tóm tắt các bộ Luật Tỳ-khưu

BìnhAnson

Dướiđâylà bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-khưu hiệnđang lưu hành:

Phânloại:(1)(2)(3)(4)(5)(6)
Cựcác pháp
4
4
4
4
4
4
Tăngtàn pháp
13
13
13
13
13
13
Bấtđịnh pháp
2
2
2
2
2
2
Xảđọa pháp
30
30
30
30
30
30
Ðơnđọa pháp
92
90
90
91
92
90
Hốiquá pháp
4
4
4
4
4
4
Chúnghọc pháp
75
100
113
100
66
42
Diệttránh pháp
7
7
7
7
7
7
Tổngcộng
227
250
263
251
218
192
Ghi chú:
(1)Luật Pàli, Thượng tọa bộ
(2)LuậtTứ Phần
(3)LuậtThập Tụng
(4)LuậtNgũ Phần
(5)LuậtTăng Kỳ
(6)LuậtHữu Bộ
So sánh5 bộ Luật đang lưu hành trong Phật Giáo Bắc Tông - từ (2)đến (6), Hòa thượng Thích Trí Quang viết:

- ..."Muốn biết giữa 5 bộ luật như thế nào thì sơ khởi hãyđem giới bản của 5 bộ ra mà so sánh chút ít. Tỷ-khưu giớicó 8 loại: 1 là khí, 2 là tăng tàn, 3 là bất định, 4 làxả đọa, 5 là đọa, 6 là hối quá, 7 là học pháp, 8 là diệttránh. Trong 8 loại này, chỉ có 2 loại 5 và 7 là 5 bộ khácnhau: loại 5 thì Tứ phần, Thập tụng và Hữu bộ đều có90,Ngũ phần có 91, Tăng kỳ có 92; còn loại 7 thì Ngũ phần vàTứ phần có 100, Tăng-kỳ (Ma-ha-tăng-kỳ, Mahasaghika)có 66, Thập tụng có 113, Hữu bộ có 42. Nhìn đại khái, giớiđiều quan trọng thì 5 bộ như nhau, giới điều linh tinh mớikhác nhau. Nhìn thêm chút nữa, giới bản của Tăng-kỳ, Ngũphần và Thập tụng thì lời kệ mở đầu và kết thúc đềunhư nhau, chỉ Tứ phần với Hữu bộ mới khác nhau. Xét văntự thì Tứ phần có chậm nhất, xét bộ phái thì Tăng-kỳcó sớm nhất. Theo ngài Pháp Hiển ghi thì "luật Tăng-kỳnày khi Phật tại thế được đại chúng đầu tiên tuân hành,được lưu truyền tại tinh xá Kỳ-hoàn"."

Sosánh với Luật Pàli, phần lớn sự khác biệt là ở Chúnghọc pháp (Sekhiya), trong đó, Luật Pàli không đề cậpđến 26 giới điều ứng xử về tháp Phật và tượng Phật(Luật Tứ Phần, Chúng học pháp: điều giới số 60 đến85).

Sauđây là phần giải thích sơ lược các học giới - dựa theoTứ phần luật (250 giới Tỳ khưu), trích từ quyển "CươngYếu Giới Luật" của Hòa thượng Thích Thiện Siêu:

Bốnpháp Cực ác (Ba-la-di):

BốnBa-la-di: Ba-la-di, Phạn tự là Pàràjjka, Tàu dịch là"Khí" - bỏ vứt ra ngoài Tăng chúng. Tội Ba-la-di có bốn, làbốn tội phạm vào thì bị bỏ đi, vứt đi. Mắc bốn tộinày coi như bỏ ra ngoài Tăng chúng, vì vậy gọi là Khí (vứtbỏ). Phạm tội này gọi là bất cọng trụ, tức không đượcphép tham dự tất cả công việc của Tăng. Luận Du-dà-sư-địacho rằng khi phạm bốn tội này gọi là Tha thắng - tức khiphạm tội nầy thì bị Ma thắng. Vì sao? vì người tu sĩ vínhư một chiến sĩ chiến đấu với bốn thứ ma: Ma phiềnnão, ma ngũ ấm, tử ma, thiên ma. Họ đánh bằng khí giớigì? Họ chiến đấu bằng cách hành trì giới luật. Khi ngườitu sĩ không trì giới, không giữ giới thì thua bốn thứ mađó, như vậy là Ma thắng. Do đó phạm bốn Ba-la-di cũng gọilà phạm Tha thắng. Tha là kẻ khác, thắng là hơn. Phạm tộiđể kẻ khác hơn gọi là Tha thắng. Nếu phạm tội này thìMa hơn. Còn phạm những tội dưới đây thì còn dằn co, chưaphân thắng bại.

Mườiba pháp Tăng tàn (Tăng-già-bà-thi-sa):

Mườiba Tăng tàn: Phạn tự là Samghà-vasena. Phiên âm là Tăng-già-bà-thi-sa.Tàu dịch là "Tăng tàn". Tăng tàn có hai nghĩa:

1.Nghĩa thứ nhất: Giới luật là tính mạng của Tăng. Khi phạmBa-la-di coi như chết hẳn. Còn nếu phạm Tăng tàn thì nhưmột người chết mà chưa chết hẳn, mới hấp hối thôi,nếu cấp cứu kịp thời, gặp thầy hay thuốc tốt thì cóthể cứu được.

2.Nghĩa thứ hai: Phạm giới này nếu đủ hai mươi Tỷ-khưuhợp lại Kiết-ma đúng pháp, cho họ sám hối thì có thểtiêu diệt được tội này, nên gọi là Tăng tàn. Trong Cănbản nhất hữu bộ gọi là Chúng giáo. Chúng là chúng Tăng,giáo là giáo dục. Chúng giáo có nghĩa phải có hai mươi vịTăng giáo dục cho, cho sám hối thì mới hết tội.

Haipháp Bất định:

Haibất định: Vì sao gọi là Bất định (Aniyata)? Vì khôngdứt khoát tội đó là Ba-la-di hay Tăng tàn hay Ba-dật-đề.Nó có thể thành tội Ba-la-di hay tội Tăng tàn hoặc Ba-dật-đềtheo lời trú tín Ưu-bà-di, là vị nữ cư sĩ có lòng tin thanhtịnh kiên cố, không nhất định nên gọi là Bất định.Hai tội này chỉ liên hệ giới bất dâm, chứ không liên hệcác giới khác.

Bamươi pháp Xả đọa (Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề):

Bamươi tội Xả đọa: Phạn tự là Nissagiya-pàcittiya.Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là phiên âm. Tàu dịch là "Xả đọa".

Tộixả và tội đọa. Loại tội này là chỉ các Tỷ-khưu, đồdùng đó khi phạm vào mà trái phép thì phải đọa. Muốn sámhối tội đó thì phải ở giữa chúng hoặc đối một ngườimà xả đồ vật lấy dùng trái phép trước rồi sám tộisau.

Nóicách khác, khi đề cập đến tội xả đọa là các vật sởhữu của Tỷ-khưu, như y, bát, tọa cụ... lại không làm thủtục tác pháp thì phải làm phép xả vật, xả tội, chừabỏ tâm lý chứa chấp, tàng trữ tài vật để khỏi đọalạc, nó gồm ba mươi giới. Ai phạm nên đưa các phẩm vậtấy ra giữa Tăng, từ bốn vị trở lên để xả và đốitrước một vị Tỷ-khưu để nói tội và xin sám hối.

Chínmươi pháp Ðơn đoạ (Ba-dật-đề):

Ba-dật-đề(Pàcittiya).Tàu dịch là "Ðơn đọa". Nó liên quan đến các tội tiểuvọng ngữ, cố ý sát hại côn trùng, cùng với nữ nhơn đichung đường v.v... gồm có chín mươi đơn đọa là tội khôngdính dáng gì đến vật dụng hết. Phạm thì bị đọa thôi,không cần xả, nên gọi là đơn đọa.

Bốnpháp Hối quá (Ba-la-đề Ðề-xá-ni):

Bốnhối quá pháp. Ba-la-đề Ðề-xá-ni (Pàtidesanniya), Tàudịch là "Hướng bỉ hối". Phạm tội này chỉ hướng tớimột Tỷ-khưu khác, nói rõ lỗi lầm đã phạm và xin sám hối.Tóm lại là tội nhỏ, có thể hối cải, người phạm cóthể nói tội với một Tỷ-khưu khác mà xin sám hối.

Mộttrăm pháp Chúng học (Thức-xoa-ca-la-ni):

Mộttrăm Học pháp phiên âm Phạn tự là Thức-xoa-ca-la-ni (SikkhàKaraniya). Tàu dịch là "Chúng học". Chúng học pháp là nhữngpháp cần nên học. Như các sinh hoạt hằng ngày, các oai nghinhỏ nhặt.... Pháp này chủ yếu là tự trách lấy mình. Ðâylà tội nhỏ nhặt, tội khó giữ nhưng hết sức dễ phạm.Khi biết phạm thì tự trách lấy mình để ăn năn, tự hứalần sau không tái phạm là đủ.

Bảypháp Diệt tránh:

BảyDiệt tránh pháp, tiếng Phạn là Adhikaramà-samathà. Tàudịch là "Diệt tránh pháp". Tức bảy phương pháp trị tộihay bảy cách thức để chấm dứt sự tranh cãi giữa chúngTăng.

BìnhAnson sưu tập,
tháng10-2000
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2012(Xem: 3696)
Thân người có ba chứng bệnh là bệnh thuộc về phong, bệnh thuộc về hàn và bệnh thuộc về nhiệt, nhưng ba chứng bệnh này gây họa không lớn, chỉ khổ trong một đời. Tâm cũng có ba nhóm bệnh, nhưng ba bệnh này gây họa thật nghiêm trọng, khiến con người phải chịu khổ đau vô lượng kiếp. Chỉ có Đức Phật, một đại lương y mới có thể ban thuốc chữa trị. Người tu hành trong vô lượng thế giới mãi bị các căn bệnh hiểm nghèo này, hôm nay mới có cơ hội tu dưỡng đức hạnh. Thế nên phải có ý chí kiên định, siêng năng tu tập, không tiếc thân mạng. Như một chiến tướng xông trận, nếu lòng không kiên định thì không thể phá giặc, phá giặc loạn tưởng
03/10/2012(Xem: 5751)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
30/09/2012(Xem: 8492)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiền là Thiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên Thai và Tam Luận chớ không nhất thiết chỉcó Đạt Ma tông. Nhưng từ đời Đường về sau, Đạt Ma tông trở nên hưng thịnh vì thế từ ngữ Thiền tông liền chuyển sang để chỉ cho Đạt Ma tông.
01/08/2012(Xem: 14196)
Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật. Lời Phật chỉ là phương tiện dẫn lối, đưa người vào ngôi nhà Chánh giác, giống như ngón tay chỉ trăng. Tâm Phật mới là cứu cánh của Chân lý bất nhị. Cho nên Phật dạy Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp. Đã là cửa Không, thì tại sao bày chi Mười cổng? Há chẳng nghe người xưa bảo, “Từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà. Nhờ duyên mà thành tựu tất phải có vay mượn bên ngoài.” Nói như vậy thật chẳng khác gì đất bằng dậy sóng, thịt da đang lành lặn lại đem ra cắt mổ đớn đau. Đã là tự tánh thì ai cũng vốn sẵn có đầy đủ, xưa chẳng bớt, nay chẳng thêm. Nhưng vì vô minh phủ lấp, hể còn sống trong đối đãi thì phải dùng pháp đối trị để ngăn ngừa vọng tâm điên đảo: Sáng đối với tối, Tịnh đối với nhiễm, Giới Định Huệ đối với Tham sân si v.v…
30/07/2012(Xem: 12519)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
28/07/2012(Xem: 8346)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữvà Đạt tâm. Do đó, chư Phật, chư Tổ ứng cơ thị hiện, tiếp dẫn độ sanh, nhằm mục đích tạo cho con người có một cuộc sống an bình tự tại. Phương tiện thì nhiều, nhưng cứu cánh chỉ có một. Nếu chúng ta biết tự chủ, nỗ lực tinh tiến dũng mãnh không chi chẳng thành tựu. Tinh tiến ít thì đạt kết quả ít, tinh tiến nhiều thì đạt kết quả nhiều. Tinh tiến rốt ráo thì kết quả viên mãn.
26/07/2012(Xem: 11616)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
25/07/2012(Xem: 13975)
Thiền (Zen) nghĩa là nhận biết Tự tánh (True Sefl). “ Ta là gì ?” (What am I?) Đó là câu hỏi rất quan trọng. Nhất thể trong sạch sáng suốt là gì? Nếu thấu hiểu, quý vị sẽ được tự do tự tại trong sanh tử. Làm thế nào đạt được tự do tự tại trong sanh tử? Trước hết, điều cần thiết là hướng đi phải rõ ràng.
09/07/2012(Xem: 3023)
Thiền và cảm xúc có một mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tu tập, chuyển hoá tâm cho đến khi đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát.
19/06/2012(Xem: 8744)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567