- 01. Giới thiệu đạo Phật
- 02. Cuộc đời Ðức Phật
- 03. Tam tạng kinh điển
- 04. Mahayana và Theravada: Cùng một cỗ xe
- 05. Đạo Phật Nguyên thủy tại Việt Nam
- 06. Ðạo Phật và chính trị
- 07. Nhân cách thăng bằng
- 08. Công dụng của giới đức
- 09. Lòng hiếu thảo trong kinh điển Pali
- 10. Duy thức trong Thắng Pháp
- 11. Chánh Niệm và Niết Bàn
- 12. Vô ngã và pháp hành thiền
- 13. Mọi pháp đều vô ngã
- 14. Ðạo và Quả
- 15. Năm triền cái
- 16. Tứ Niệm Xứ: Bốn nền tảng của Chánh Niệm
- 17. Quán niệm hơi thở
- 18. Lợi ích của thiền hành
- 19. Ba bài pháp về Thiền Quán
- 20. So sánh tóm tắt các bộ Luật Tỳ-khưu
- 21. Quy ước trích dẫn kinh điển Nguyên thủy
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549
BìnhAnson
Dướiđâylà bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-khưu hiệnđang lưu hành:
Phânloại: | (1) | (2) | (3) | (4) | (5) | (6) |
Cựcác pháp | 4 | 4 | 4 | 4 | 4 | 4 |
Tăngtàn pháp | 13 | 13 | 13 | 13 | 13 | 13 |
Bấtđịnh pháp | 2 | 2 | 2 | 2 | 2 | 2 |
Xảđọa pháp | 30 | 30 | 30 | 30 | 30 | 30 |
Ðơnđọa pháp | 92 | 90 | 90 | 91 | 92 | 90 |
Hốiquá pháp | 4 | 4 | 4 | 4 | 4 | 4 |
Chúnghọc pháp | 75 | 100 | 113 | 100 | 66 | 42 |
Diệttránh pháp | 7 | 7 | 7 | 7 | 7 | 7 |
Tổngcộng | 227 | 250 | 263 | 251 | 218 | 192 |
(1)Luật Pàli, Thượng tọa bộSo sánh5 bộ Luật đang lưu hành trong Phật Giáo Bắc Tông - từ (2)đến (6), Hòa thượng Thích Trí Quang viết:
(2)LuậtTứ Phần
(3)LuậtThập Tụng
(4)LuậtNgũ Phần
(5)LuậtTăng Kỳ
(6)LuậtHữu Bộ
- ..."Muốn biết giữa 5 bộ luật như thế nào thì sơ khởi hãyđem giới bản của 5 bộ ra mà so sánh chút ít. Tỷ-khưu giớicó 8 loại: 1 là khí, 2 là tăng tàn, 3 là bất định, 4 làxả đọa, 5 là đọa, 6 là hối quá, 7 là học pháp, 8 là diệttránh. Trong 8 loại này, chỉ có 2 loại 5 và 7 là 5 bộ khácnhau: loại 5 thì Tứ phần, Thập tụng và Hữu bộ đều có90,Ngũ phần có 91, Tăng kỳ có 92; còn loại 7 thì Ngũ phần vàTứ phần có 100, Tăng-kỳ (Ma-ha-tăng-kỳ, Mahasaghika)có 66, Thập tụng có 113, Hữu bộ có 42. Nhìn đại khái, giớiđiều quan trọng thì 5 bộ như nhau, giới điều linh tinh mớikhác nhau. Nhìn thêm chút nữa, giới bản của Tăng-kỳ, Ngũphần và Thập tụng thì lời kệ mở đầu và kết thúc đềunhư nhau, chỉ Tứ phần với Hữu bộ mới khác nhau. Xét văntự thì Tứ phần có chậm nhất, xét bộ phái thì Tăng-kỳcó sớm nhất. Theo ngài Pháp Hiển ghi thì "luật Tăng-kỳnày khi Phật tại thế được đại chúng đầu tiên tuân hành,được lưu truyền tại tinh xá Kỳ-hoàn"."
Sosánh với Luật Pàli, phần lớn sự khác biệt là ở Chúnghọc pháp (Sekhiya), trong đó, Luật Pàli không đề cậpđến 26 giới điều ứng xử về tháp Phật và tượng Phật(Luật Tứ Phần, Chúng học pháp: điều giới số 60 đến85).
Sauđây là phần giải thích sơ lược các học giới - dựa theoTứ phần luật (250 giới Tỳ khưu), trích từ quyển "CươngYếu Giới Luật" của Hòa thượng Thích Thiện Siêu:
Bốnpháp Cực ác (Ba-la-di):
BốnBa-la-di: Ba-la-di, Phạn tự là Pàràjjka, Tàu dịch là"Khí" - bỏ vứt ra ngoài Tăng chúng. Tội Ba-la-di có bốn, làbốn tội phạm vào thì bị bỏ đi, vứt đi. Mắc bốn tộinày coi như bỏ ra ngoài Tăng chúng, vì vậy gọi là Khí (vứtbỏ). Phạm tội này gọi là bất cọng trụ, tức không đượcphép tham dự tất cả công việc của Tăng. Luận Du-dà-sư-địacho rằng khi phạm bốn tội này gọi là Tha thắng - tức khiphạm tội nầy thì bị Ma thắng. Vì sao? vì người tu sĩ vínhư một chiến sĩ chiến đấu với bốn thứ ma: Ma phiềnnão, ma ngũ ấm, tử ma, thiên ma. Họ đánh bằng khí giớigì? Họ chiến đấu bằng cách hành trì giới luật. Khi ngườitu sĩ không trì giới, không giữ giới thì thua bốn thứ mađó, như vậy là Ma thắng. Do đó phạm bốn Ba-la-di cũng gọilà phạm Tha thắng. Tha là kẻ khác, thắng là hơn. Phạm tộiđể kẻ khác hơn gọi là Tha thắng. Nếu phạm tội này thìMa hơn. Còn phạm những tội dưới đây thì còn dằn co, chưaphân thắng bại.
Mườiba pháp Tăng tàn (Tăng-già-bà-thi-sa):
Mườiba Tăng tàn: Phạn tự là Samghà-vasena. Phiên âm là Tăng-già-bà-thi-sa.Tàu dịch là "Tăng tàn". Tăng tàn có hai nghĩa:
1.Nghĩa thứ nhất: Giới luật là tính mạng của Tăng. Khi phạmBa-la-di coi như chết hẳn. Còn nếu phạm Tăng tàn thì nhưmột người chết mà chưa chết hẳn, mới hấp hối thôi,nếu cấp cứu kịp thời, gặp thầy hay thuốc tốt thì cóthể cứu được.
2.Nghĩa thứ hai: Phạm giới này nếu đủ hai mươi Tỷ-khưuhợp lại Kiết-ma đúng pháp, cho họ sám hối thì có thểtiêu diệt được tội này, nên gọi là Tăng tàn. Trong Cănbản nhất hữu bộ gọi là Chúng giáo. Chúng là chúng Tăng,giáo là giáo dục. Chúng giáo có nghĩa phải có hai mươi vịTăng giáo dục cho, cho sám hối thì mới hết tội.
Haipháp Bất định:
Haibất định: Vì sao gọi là Bất định (Aniyata)? Vì khôngdứt khoát tội đó là Ba-la-di hay Tăng tàn hay Ba-dật-đề.Nó có thể thành tội Ba-la-di hay tội Tăng tàn hoặc Ba-dật-đềtheo lời trú tín Ưu-bà-di, là vị nữ cư sĩ có lòng tin thanhtịnh kiên cố, không nhất định nên gọi là Bất định.Hai tội này chỉ liên hệ giới bất dâm, chứ không liên hệcác giới khác.
Bamươi pháp Xả đọa (Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề):
Bamươi tội Xả đọa: Phạn tự là Nissagiya-pàcittiya.Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề là phiên âm. Tàu dịch là "Xả đọa".
Tộixả và tội đọa. Loại tội này là chỉ các Tỷ-khưu, đồdùng đó khi phạm vào mà trái phép thì phải đọa. Muốn sámhối tội đó thì phải ở giữa chúng hoặc đối một ngườimà xả đồ vật lấy dùng trái phép trước rồi sám tộisau.
Nóicách khác, khi đề cập đến tội xả đọa là các vật sởhữu của Tỷ-khưu, như y, bát, tọa cụ... lại không làm thủtục tác pháp thì phải làm phép xả vật, xả tội, chừabỏ tâm lý chứa chấp, tàng trữ tài vật để khỏi đọalạc, nó gồm ba mươi giới. Ai phạm nên đưa các phẩm vậtấy ra giữa Tăng, từ bốn vị trở lên để xả và đốitrước một vị Tỷ-khưu để nói tội và xin sám hối.
Chínmươi pháp Ðơn đoạ (Ba-dật-đề):
Ba-dật-đề(Pàcittiya).Tàu dịch là "Ðơn đọa". Nó liên quan đến các tội tiểuvọng ngữ, cố ý sát hại côn trùng, cùng với nữ nhơn đichung đường v.v... gồm có chín mươi đơn đọa là tội khôngdính dáng gì đến vật dụng hết. Phạm thì bị đọa thôi,không cần xả, nên gọi là đơn đọa.
Bốnpháp Hối quá (Ba-la-đề Ðề-xá-ni):
Bốnhối quá pháp. Ba-la-đề Ðề-xá-ni (Pàtidesanniya), Tàudịch là "Hướng bỉ hối". Phạm tội này chỉ hướng tớimột Tỷ-khưu khác, nói rõ lỗi lầm đã phạm và xin sám hối.Tóm lại là tội nhỏ, có thể hối cải, người phạm cóthể nói tội với một Tỷ-khưu khác mà xin sám hối.
Mộttrăm pháp Chúng học (Thức-xoa-ca-la-ni):
Mộttrăm Học pháp phiên âm Phạn tự là Thức-xoa-ca-la-ni (SikkhàKaraniya). Tàu dịch là "Chúng học". Chúng học pháp là nhữngpháp cần nên học. Như các sinh hoạt hằng ngày, các oai nghinhỏ nhặt.... Pháp này chủ yếu là tự trách lấy mình. Ðâylà tội nhỏ nhặt, tội khó giữ nhưng hết sức dễ phạm.Khi biết phạm thì tự trách lấy mình để ăn năn, tự hứalần sau không tái phạm là đủ.
Bảypháp Diệt tránh:
BảyDiệt tránh pháp, tiếng Phạn là Adhikaramà-samathà. Tàudịch là "Diệt tránh pháp". Tức bảy phương pháp trị tộihay bảy cách thức để chấm dứt sự tranh cãi giữa chúngTăng.
tháng10-2000