Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Đạo Phật Nguyên thủy tại Việt Nam

02/02/201111:04(Xem: 10910)
05. Đạo Phật Nguyên thủy tại Việt Nam

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

ĐạoPhật Nguyên Thủy tại Việt Nam

BìnhAnson

ĐạoPhậttruyền đến Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ TâyLịch. Đến cuối thế kỷ thứ hai, Việt Nam đã thành lậpđược một trung tâm Phật Giáo quan trọng trong vùng, thườngđược gọi là trung tâm Phật Giáo Luy Lâu, nay thuộc tỉnhBắc Ninh, phía bắc thành phố Hà Nội. Luy Lâu là thủ đôcủa xứ Giao Chỉ, tên cũ của Việt Nam, và là một trạmnghỉ chân quen thuộc của các nhà truyền giáo đạo Phậtngười Ấn Độ, trên hành trình sang Trung Hoa theo đường biểncủa các thương gia Ấn đi từ bán đảo Ấn Độ. Một sốkinh điển Đại Thừa và A-hàm đã được dịch sang Hoa văntại đó, chẳng hạn như kinh Tứ Thập Nhị Chương, An BanThủ Ý, Kinh Bổn Sanh, Kinh Mi-lan-đa Vấn Đạo, v.v.

Trong18 thế kỷ kế tiếp, vì điều kiện địa lý gần nhau, ViệtNam và Trung Hoa có chung nhiều sắc thái triết học và tôngiáo. Phật Giáo Việt Nam phản ánh nhiều ảnh hưởng củacác phát triển hệ Đại Thừa tại Trung Hoa, với các tôngphái Thiền, Tịnh và Mật.

Phầnđất phía nam của Việt Nam ngày nay đầu tiên có người Chàmvà Khơ-me trú ngụ, và họ theo cả hai truyền thống ĐạiThừa Ấn Độ và Phật Giáo Nguyên Thủy, mặc dù có lẽ làngười Chàm đã theo truyền thống Nguyên Thủy từ thế kỷ3 TL và người Khơ-me chỉ bắt đầu theo truyền thống NguyênThủy vào thế kỷ 12.

NgườiViệt bắt đầu định cư tại phần đất nầy vào thế kỷ15. Từ đó, sắc tộc người Việt theo Phật Giáo Đại Thừa,trong khi sắc tộc người Khơ-me theo truyền thống Phật GiáoNguyên Thủy, cả hai truyền thống nầy cùng chung nhau hiệnhữu an hòa.

Trongthập niên 1920 và 1930, ở Việt Nam có nhiều phong trào phụchoạt và canh tân các hoạt động Phật Giáo. Song song vớisự chỉnh đốn các tổ chức Đại Thừa, còn có nhiều chútâm đến các hoạt động của truyền thống Nguyên Thủy,về pháp hành thiền và các kinh sách dựa theo kinh tạng Pali,nhưng viết bằng tiếng Pháp. Trong số những người tiên phongtruyền bá đạo Phật Nguyên Thủy vào Việt Nam có một vịbác sĩ thú y trẻ tên là Lê Văn Giảng. Ông sinh ra ở miềnNam, nhưng đi học ở Hà Nội, và sau khi tốt nghiệp, ông đượccử sang làm việc tại Phnom Penh (Nam Vang) cho chính quyền Pháp.Trong thời gian đó, ông bắt đầu để tâm đến đạo Phật.

Ôngtheo học các pháp môn Tịnh độ và Mật tông, nhưng cảm thấykhông hợp duyên. Tình cờ, ông được gặp vị Phó Tăng ThốngCam Bốt, và được vị sư nầy giới thiệu một quyển sáchtiếng Pháp, viết về Bát Chánh Đạo. Ông rất xúc độngkhi đọc những lời giảng rõ ràng trong quyển sách đó vàquyết tâm hành trì theo truyền thống nầy. Ông học pháp hànhthiền quán hơi thở (anapanasati)từ một vị tăng CamBốt tại chùa Unalom và đạt được mức thiền định rấtcao. Ông tiếp tục hành trì theo pháp môn nầy và vài năm sauquyết định xuất gia, với pháp danh là Hộ Tông (Vansarakkhita).

Vàonăm 1940, khi được một người bạn thân, ông Nguyễn VănHiểu, và một số cư sĩ Phật tử Việt thỉnh mời, Tỳ khưuHộ Tông trở về Việt Nam và giúp thiết lập chùa Bửu Quangở Gò Dưa, Thủ Đức. Đây là ngôi chùa đầu tiên của PhậtGiáo Nguyên Thủy Việt Nam. Sau đó, Hòa Thượng Chuon Nath, vịTăng Thống Phật Giáo Cam Bốt cùng với 30 vị tỳ khưu CamBốt đã đến ngôi chùa nầy để làm lễ kết giới Sima.Năm 1947 chùa bị quân Pháp tàn phá, và được trùng tu vàonăm 1951.

Tạichùa Bửu Quang, ngài Hộ Tông cùng với các vị tỳ khưu Việtkhác, trước đó đã thọ giới và tu học tại Cam Bốt, nhưquý ngài Thiện Luật, Bửu Chơn, Kim Quang, Giới Nghiêm, TịnhSự, Tối Thắng, Giác Quang, Ẩn Lâm, bắt đầu truyền giảngPhật Pháp bằng tiếng Việt. Ngài cũng phiên dịch nhiều kinhđiển từ tạng Pali, và từ đó, Phật Giáo Nguyên Thủy trởthành một trong những hoạt động chính của Phật Giáo ViệtNam.

Vàonăm 1949-1950, ngài Hộ Tông cùng với ông Nguyễn Văn Hiểuvà một số cư sĩ thiện tâm đứng ra xây dựng chùa Kỳ Viêntại khu Bàn Cờ, Quận Ba, Sài Gòn. Từ đó, Kỳ Viên Tự trởthành một trung tâm chính của các hoạt động Phật Giáo NguyênThủy, và càng ngày càng thu hút nhiều Phật tử.

Năm1957, Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam chính thức đượcthành lập, và Tăng đoàn Nguyên Thủy đề cử ngài Hộ Tônglàm vị Tăng Thống đầu tiên của Giáo Hội.

Trongthời kỳ đó, các hoạt động Phật sự được tăng cườngvới sự hiện diện của Hòa Thượng Narada đến từ TíchLan. Ngài Narada đã từng đến Việt Nam vào thập niên 1930và có mang nhiều nhánh cây bồ đề để trồng tại nhiềunơi trong toàn xứ. Trong những lần viếng thăm vào thập niên1950 và 1960, ngài đã thu hút được nhiều Phật tử đếnvới truyền thống Nguyên Thủy, trong số đó có một nhà dịchgiả nổi tiếng là ông Phạm Kim Khánh. Ông Khánh đã xin quyy Tam Bảo với ngài, với pháp danh là Sunanda. Ông đã từngdịch nhiều sách của ngài Narada, trong đó có quyển ĐứcPhật và Phật Pháp, Phật Giáo Tóm Lược, Kinh Tứ Niệm Xứ,Kinh Pháp Cú, Cẩm Nang Vi Diệu Pháp, Tứ Vô Lượng Tâm, NhữngBước Thăng Trầm, v.v. Ông Khánh hiện đang ngụ tại Hoa Kỳ,dù đã trong tuổi 80, vẫn tích cực dịch thuật các sách PhậtPháp của các vị thiền sư nổi tiếng của Thái Lan, MiếnĐiện và Tích Lan.

TừSài Gòn, đạo Phật Nguyên Thủy được truyền bá đến cáctỉnh thành khắp miền Nam và miền Trung nước Việt và nhiềuchùa được thiết lập. Theo thống kê năm 1997, có tất cả64 chùa Phật Giáo Nguyên Thủy, trong đó có 19 chùa tại SàiGòn. Ngoài chùa Bửu Quang và Kỳ Viên, còn có nhiều chùa nổitiếng khác như chùa Bửu Long, Giác Quang, Phổ Minh, Tam Bảo(Đà Nẵng), Thiền Lâm và Huyền Không (Huế), và Thích Ca PhậtĐài ở Vũng Tàu.

Trongthập niên 1960 và 1970, nhiều vị tỳ khưu được gửi đitu học nước ngoài, đông nhất là tại Thái Lan, và vài vịkhác tại Tích Lan và Ấn Độ. Chương trình tu học nầy đượcthiết lập trở lại trong những năm gần đây, và hiện cókhoảng 20 vị đang tu học tại Miến Điện.

Tronglịch sử, có một sự liên hệ khắng khít giữa Tăng đoànViệt Nam và Cam Bốt. Cũng cần ghi nhận ở đây là vào năm1979, sau khi nhóm Khơ-me Đỏ bị đánh đuổi ra khỏi Phnom Penh,hai vị Hòa Thượng Bửu Chơn và Giới Nghiêm cùng với mộtđoàn tỳ khưu Việt Nam đã đến thành phố này để tái truyềngiới cho 7 vị tỳ khưu Cam Bốt và phục hồi Tăng đoàn CamBốt, vốn đã bị nhóm Khơ-me Đỏ tiêu diệt khi họ nắmquyền.

Kinhđiển Phật Pháp bằng Việt ngữ được dịch ra từ 2 nguồn:Tam tạng Pali và Hán tạng A-hàm, cùng với nhiều kinh điểnĐại Thừa khác. Từ thập niên 1980, một chương trình phiêndịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam đã được thànhlập và xúc tiến, với sự đóng góp của nhiều vị cao tănghọc giả của Bắc tông lẫn Nam tông.

Đếnnay, các quyển kinh dịch từ 5 bộ Nikaya, do Hòa Thượng MinhChâu dịch, và 4 bộ A-hàm, do quý ngài Hòa Thượng Trí Tịnh,Thiện Siêu, và Thanh Từ dịch, đã được phát hành. Thêmvào đó, toàn bộ 7 tập của tạng Vi Diệu Pháp (A tỳ đàm,Abhidhamma, Thắng Pháp tạng) do Hòa Thượng Tịnh Sự dịchcũng đã được ấn tống, cùng với các bộ Kinh Pháp Cú,Mi-lan-đa Vấn Đạo, Thanh Tịnh Đạo, Thắng Pháp Tập Yếu,và nhiều tác phẩm khác.

Tómlại, mặc dù Phật Giáo Việt Nam chủ yếu là theo truyềnthống Đại Thừa, truyền thống Nguyên Thủy cũng được côngnhận và hiện nay có nhiều quan tâm đến các pháp hành thiềnNguyên Thủy, kinh điển Nikaya và A-hàm, và văn học Vi DiệuPháp.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2012(Xem: 3696)
Thân người có ba chứng bệnh là bệnh thuộc về phong, bệnh thuộc về hàn và bệnh thuộc về nhiệt, nhưng ba chứng bệnh này gây họa không lớn, chỉ khổ trong một đời. Tâm cũng có ba nhóm bệnh, nhưng ba bệnh này gây họa thật nghiêm trọng, khiến con người phải chịu khổ đau vô lượng kiếp. Chỉ có Đức Phật, một đại lương y mới có thể ban thuốc chữa trị. Người tu hành trong vô lượng thế giới mãi bị các căn bệnh hiểm nghèo này, hôm nay mới có cơ hội tu dưỡng đức hạnh. Thế nên phải có ý chí kiên định, siêng năng tu tập, không tiếc thân mạng. Như một chiến tướng xông trận, nếu lòng không kiên định thì không thể phá giặc, phá giặc loạn tưởng
03/10/2012(Xem: 5752)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
30/09/2012(Xem: 8492)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiền là Thiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên Thai và Tam Luận chớ không nhất thiết chỉcó Đạt Ma tông. Nhưng từ đời Đường về sau, Đạt Ma tông trở nên hưng thịnh vì thế từ ngữ Thiền tông liền chuyển sang để chỉ cho Đạt Ma tông.
01/08/2012(Xem: 14197)
Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật. Lời Phật chỉ là phương tiện dẫn lối, đưa người vào ngôi nhà Chánh giác, giống như ngón tay chỉ trăng. Tâm Phật mới là cứu cánh của Chân lý bất nhị. Cho nên Phật dạy Tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa Pháp. Đã là cửa Không, thì tại sao bày chi Mười cổng? Há chẳng nghe người xưa bảo, “Từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà. Nhờ duyên mà thành tựu tất phải có vay mượn bên ngoài.” Nói như vậy thật chẳng khác gì đất bằng dậy sóng, thịt da đang lành lặn lại đem ra cắt mổ đớn đau. Đã là tự tánh thì ai cũng vốn sẵn có đầy đủ, xưa chẳng bớt, nay chẳng thêm. Nhưng vì vô minh phủ lấp, hể còn sống trong đối đãi thì phải dùng pháp đối trị để ngăn ngừa vọng tâm điên đảo: Sáng đối với tối, Tịnh đối với nhiễm, Giới Định Huệ đối với Tham sân si v.v…
30/07/2012(Xem: 12521)
Nói về Giáo, trong Kinh Trung A Hàm (Bahuvedaniya-Majjhima Nikaya) số 57, đức Phật đã chỉ dẫn Mười loại Hạnh phúc Tối thượng, sắp xếp thứ tự do kết quả tu chứng, trong đó có: Đoạn thứ 6. “ Này Anandà. Nơi đây vượt hẳn lên khỏi mọi tri giác và hình thể (Sắc), không còn phản ứng của giác quan, hoàn toàn không chú tâm đến mọi sự khác nhau của tri giác ….” Đoạn thứ 10. “Nơi đây vượt hẳn lên khỏi cảnh giới Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng (Chẳng Phải Tưởng, Chẳng Phải Chẳng Có Tưởng), đạt đến sự chấm dứt mọi Tri giác và Cảm giác (Sãnnavedayita Niroda).”
28/07/2012(Xem: 8346)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữvà Đạt tâm. Do đó, chư Phật, chư Tổ ứng cơ thị hiện, tiếp dẫn độ sanh, nhằm mục đích tạo cho con người có một cuộc sống an bình tự tại. Phương tiện thì nhiều, nhưng cứu cánh chỉ có một. Nếu chúng ta biết tự chủ, nỗ lực tinh tiến dũng mãnh không chi chẳng thành tựu. Tinh tiến ít thì đạt kết quả ít, tinh tiến nhiều thì đạt kết quả nhiều. Tinh tiến rốt ráo thì kết quả viên mãn.
26/07/2012(Xem: 11616)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
25/07/2012(Xem: 13975)
Thiền (Zen) nghĩa là nhận biết Tự tánh (True Sefl). “ Ta là gì ?” (What am I?) Đó là câu hỏi rất quan trọng. Nhất thể trong sạch sáng suốt là gì? Nếu thấu hiểu, quý vị sẽ được tự do tự tại trong sanh tử. Làm thế nào đạt được tự do tự tại trong sanh tử? Trước hết, điều cần thiết là hướng đi phải rõ ràng.
09/07/2012(Xem: 3023)
Thiền và cảm xúc có một mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tu tập, chuyển hoá tâm cho đến khi đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát.
19/06/2012(Xem: 8744)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567