Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

16. Tứ Niệm Xứ: Bốn nền tảng của Chánh Niệm

02/02/201111:04(Xem: 10752)
16. Tứ Niệm Xứ: Bốn nền tảng của Chánh Niệm

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

TứNiệm Xứ:
Bốnnền tảng của Chánh Niệm

Tỳkhưu Brahmavamso

Cácvịthiền sư Phật Giáo đã nói rất nhiều về cách hànhtrì Pháp Tứ Niệm Xứ (Satipattana), ngoại trừ ngườitu sĩ nầy. Cho nên, trong bài pháp ngắn hôm nay, tôi cũng xintheo xu hướng đó để trình bày một vài điều quan sát thựctế về pháp hành thiền nầy, vốn là một pháp giảng củỪức Phật mà có lẽ đã có nhiều ngộ nhận trong hàng thiềnsinh Phật Tử.

Cácbạn nào đã từng tham gia sinh hoạt tại các trung tâm PhậtGiáo thì chắc đã nghe nhiều vị thầy tuyên bố rằng PhápTứ Niệm Xứ là "một con đường duy nhất"để tiếnđến Giác Ngộ. Mặc dù lời tuyên bố nầy có vẻ khẳngđịnh và hấp dẫn, nhưng thật ra, đó không phải là lờiphiên dịch chính xác của kinh điển Nguyên thủy và cũng khôngnhất quán với những lời Phật dạy trong các bài kinh khác.Cụm từ Pali "Ekayana Magga"trong bài kinh số 10 (kinh TứNiệm Xứ) trong Trung Bộ thường được dịch là "Con đườngduy nhất"cũng được dùng trong bài kinh số 12 (đại kinhSư Tử Hống) và có ý nghĩa rõ ràng là "một con đườngvới một mục đích duy nhất". Có nhiều con đường khácnhau nhưng cùng chung một mục đích.

Thậtra, "Con đường duy nhất" đã được Ðức Thế Tôn đềcập đến, không phải là Tứ Niệm Xứ, mà là Con ÐườngTám Chánh (Bát Chánh Ðạo), như trong kinh Pháp Cú:

"Trongtất cả các con đường,
ConÐường Tám Chánh là thù thắng nhất (...).

Ðâylà con đường duy nhất,

Khôngcó con đường nào khác,

Đểđi đến tri kiến thanh tịnh"(...)

(PhápCú, 273-274, giản lược)
Như thế,"Conđường duy nhất"đến Giác Ngộ, như mọi Phật Tử đềuđã biết rõ, làBát Chánh Ðạo. Bốn nền tảng củaChánh Niệm (Tứ Niệm Xứ) chỉ là một phần của con đườngđó. Ðó là chi phần thứ 7 (Chánh Niệm). Ngoài ra, còn cóChánh Ðịnh là chi thứ 8, và cũng còn có Chánh Kiến, ChánhTư Duy, Chánh Tinh Tấn, và 3 chi của Chánh Giới (Chánh Ngữ,Chánh Nghiệp, và Chánh Mạng). Mỗi chi phần nầy đều cầnthiết như nhau để đạt Giác Ngộ. Nếu có chi phần nào màkhông cần thiết thì ắt hẳn Ðức Phật đã dạy về ÐạoBảy Chánh, Ðạo Sáu Chánh, v.v. Thế nhưng, trong kinh điển,lúc nào Ngài cũng đề cập đến Ðạo Tám Chánh (Bát ChánhÐạo). Cho nên, trong công tác tu học và hành trì của mình,các bạn cần phải luôn luôn ghi nhớ rằng tất cả tám chiphần của Bát Chánh Ðạo cần phải được tu dưỡng đồngđều và trọn vẹn, như là "một con đường duy nhất".

Hànhtrìpháp Tứ Niệm Xứ như lời Phật dạy là một công phurất cao cấp. Cao cấp đến nỗi mà Ðức Thế Tôn dạy rằngnếu người nào có thể hành trì nghiêm túc bốn niệm xứđó theo phương cách mà Ngài đã đưa ra thì chỉ trong bảyngày, người đó có thể đạt Giác Ngộ hay đắc quả BấtLai (kinh Tứ Niệm Xứ). Nhiều thiền sinh đã từng tham dựcác khóa thiền 7 ngày, 10 ngày, hay nhiều hơn mà vẫn chưađạt được một kết quả cao quý nào như Ðức Phật đãhứa hẹn. Tại sao thế? Tôi nghĩ rằng đó là vì họ đãkhông thực hành nghiêm túc đúng theo những lời Phật dạy.

Nếubạn muốn thực hành pháp Tứ Niệm Xứ theo phương cách màÐức Phật nói có kết quả nhanh chóng tiến đến Giác Ngộ,thì có nhiều việc mà bạn cần phải hoàn tất trước khibạn bắt đầu quán niệm. Các công việc sửa soạn nầy cóthể tóm tắt như sau: - Bạn cần phải hành trì trọn vẹnbảy chi phần kia của Bát Chánh Ðạo.

Haynói một cách khác, như Ðức Phật đã giảng trong Tăng ChiBộ (Chương Chín Pháp - Phẩm Niệm Xứ, kinh số 63 và 64),bạn phải tuân giữ chặt chẽ 5 Giới luật, đoạn tận 5Triền cái (tham lam, sân hận, hôn trầm, trạo hối, nghi ngờ),rồi mới hành thiền Quán Niệm.

Cácđiều kiện tiên quyết tối quan trọng nầy thật ra đã đượcÐức Phật giảng trong hai bài kinh về Tứ Niệm Xứ (trongTrung Bộ và Trường Bộ) trong câu Pali: "Loke Abhijjha-Domanassam".Câu nầy thường được dịch là: "sau khi nhiếp phục thamlam và ưu sầu trên đời"hay tương tự như thế. Lờidịch như vậy thường không được các thiền sinh hiểu rõ,và có lẽ họ xem thường lời dạy đó của Ðức Phật, vàvì thế, họ đã không đạt được kết quả nào cả!

Vàothời Ðức Phật còn tại thế, các vị tỳ khưu, tỳ khưuni, và cư sĩ ắt hẳn đã hiểu ngay câu nói đó có nghĩa là"saukhi đã đoạn tận năm Triền cái". Các bản chú giải chínhthống về hai bài kinh Tứ Niệm Xứ đều giải thích rõ ràngrằng cụm từ Abhijjha-Domanassamlà dùng để chỉ nămTriền cái. Trong các bài kinh giảng khác của Ðức Phật, Abhijjhalà đồng nghĩa với Triền cái thứ nhất, Domanassamlàđồng nghĩa với Triền cái thứ nhì, và nếu dùng chung lạivới nhau - trong thành ngữ Pali - đó là cách viết tắt chonhóm năm Triền cái. Ðiều nầy có nghĩa là cả năm Triềncái phải được đoạn tận trước khi bắt đầu hành trìpháp Quán Niệm. Cho nên, theo ý kiến của tôi, chính vì cácthiền sinh cố hành thiền Quán Niệm trong khi vẫn còn vướngmắc vào các Triền cái mà họ đã không đạt được kếtquả tốt, hay lâu dài.

Chứcnăng của việc đem tâm an trú vào các tầng thiền-na (Jhana)- chi phần Chánh Ðịnh của Bát Chánh Ðạo - là để đoạntận tất cả năm Triền cái để giúp triển khai tuệ Minhsát. Trong bài kinh số 68 của Trung Bộ (kinh Nalakapana),Ðức Phật dạy rằng khi hành giả chưa đạt các tầng thiền-na,năm Triền cái cùng với bất lạc và giải đãi sẽ xâm chiếmtâm và trú tại đó. Chỉ khi nào hành giả đạt vào các tầngthiền-na thì năm Triền cái cùng với bất lạc và giải đãimới không xâm chiếm tâm và không trú tại đó. Ðức Phậtđã dạy rõ ràng như thế.

Thiềnsinh nào đã trực nghiệm được các tầng thiền-na mạnh mẽnầy thì ắt đã biết được, qua kinh nghiệm bản thân, bảnchất thật sự của tâm sau khi các Triền cái đã đoạn tận.Thiền sinh nào chưa biết các tầng thiền-na thì chưa hiểurõ các dạng vi tế của các Triền cái. Họ tưởng rằng cácTriền cái đã đoạn tận, nhưng thật ra, họ đã không nhậnthức được chúng, và vì thế, đã không đạt kết quả tốttrong khi hành thiền.

Dođó, pháp hành Thiền An Chỉ (Samatha)để nuôi dưỡngcác tầng thiền-na là một phần của pháp Quán Niệm, và vìthế nếu cho rằng pháp Quán Niệm (Satipattana)là mộtpháp "Thiền Minh Sát thuần túy" (Vipassana)thì điềunầy không được chính xác cho lắm. Vị thầy của tôi, ngàithiền sư Ajahn Chah, đã nói đi nói lại nhiều lần rằng SamathaVipassana- An Ðịnh và Minh Sát; Chỉ và Quán - phảiđi đôi với nhau, không thể tách rời được, như thể haimặt của một đồng tiền.

Saukhi đã kiên trì hoàn tất các công tác sửa soạn cần thiết,thiền sinh giờ đây có thể an trú chánh niệm vào một trongbốn đề mục: thân thể của mình, các cảm thọ đau đớnhay hỷ lạc, tâm thức, và đối tượng của tâm (thân, thọ,tâm, pháp). Khi các Triền cái đã tàn lụi và thiền sinh cóthể duy trì định lực vững mạnh để chú niệm vào cácđề mục nầy, thì lúc đó thiền sinh mới có thể quán chiếuđược phần sâu thẳm trong tâm thức, sâu hơn cả các nhậnthức thông thường, về tính chất vô thường của cái gọilà Tự Ngã mà chúng ta thường bám víu vào đó.

Chúngta thường cho rằng thân thể nầy là tôi, là của tôi, rằngcác cảm thọ sướng hay khổ là có liên quan với cái tôi,rằng cái tâm đang quán sát chính là linh hồn của tôi, rằngcác đối tượng của tâm như là ý nghĩ và hành thức (tácnhân "chọn lựa") là Tự Ngã, là tôi, là của tôi. Mụcđích của Tứ Niệm Xứ là để hướng dẫn thiền sinh phảilàm gì sau khi đã thoát ra các tầng thiền-na, để khám phára cái ảo tưởng đã được ngụy trang khéo léo của cáigọi là Tự Ngã, và từ đó thấy được điều mà Ðức Phậtđã khám phá, đó là Chân Lý của Vô Ngã.

Ðâykhông phải là điều dễ làm, không phải bất cứ ngườinào cũng làm được trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, đólà điều khả thi, có thể hoàn tất được trong bảy ngày,với điều kiện là thiền sinh phải hành trì trọn vẹnvà nghiêm chỉnhtheo những lời Ðức Phật dạy màkhông đi theo một ngõ tắt nào khác.

BìnhAnson lược dịch,
tháng8-1997
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 9599)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 7810)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 9553)
Tại các quốc gia Âu Mỹ, pháp thiền trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy thường được hiểu như là pháp thiền minh sát, cho đến nổi có nhiều người thực hành trong truyền thống này xem mình như là các thiền giả minh sát. Tuy nhiên, các bản kinh Pali -- tài liệu cổ xưa ghi lại các bài giảng của Đức Phật, không xem thiền minh sát như là một hệ thống tu thiền độc lập nhưng là một thành tố của một cặp kỷ năng hành thiền gọi là Samatha và Vipassanà, An Chỉ và Minh Quán -- hay Chỉ và Quán.
10/04/2013(Xem: 7028)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
09/04/2013(Xem: 13574)
Người Tây Phương đã có những công trình nghiên cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả người Anh, người Đức, tiêu biển nhất là những hội viên của Pali Text Society và Royal Asiatic Academy đã để lại những dịch phẩm, tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới. Một số cá nhân đi xa hơn trở thành những tu sĩ Tây phương tại các quốc gia Phật giáo. Họ tìm thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi sống giữa những người Phật tử Á Đông.
09/04/2013(Xem: 5306)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
04/04/2013(Xem: 6620)
"Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền.
02/04/2013(Xem: 2300)
Tất cả những ai đến thực tập Thiền Minh Sát Tuệ [hay Thiền Minh Sát] đều mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai chưa khai triển Trí Tuệ đều mong phát sanh Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai đã có vài Tuệ giác đều mong phát triển thêm Trí Tuệ thật nhanh. Mọi người mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh.
21/03/2013(Xem: 14187)
NIẾT BÀN, phỏng dịch theo nguyên bản mang tựa đề: “NIRVANA IN A NUTSHELL” của SCOTT SHAW, do Barnes & Noble ấn hành năm 2003. Tác giả Scott Shaw là một nhà văn điêu luyện, một nhà giáo, một nhà võ và đồng thời là một Phật tử thuận thành.
28/12/2012(Xem: 14078)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567