Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Công dụng của giới đức

02/02/201111:04(Xem: 9983)
08. Công dụng của giới đức

GIỚI THIỆUĐẠO PHẬT
BìnhAnson
NhàXuất Bản Tôn Giáo, TL. 2005 - PL. 2549

Côngdụng của giới đức

Tỳkhưu Thanissaro

ĐứcPhậtđược ví như một vị lương y, chữa bệnh tâm linhcho loài người. Con đường hành đạo Ngài dạy được vínhư một chương trình trị liệu các đau khổ trong tim và tríóc. Ví dụ này thường được thấy trong kinh điển, đểca ngợi Đức Phật và lời dạy của Ngài, tuy đã xưa nhưngcũng rất thích hợp cho ngày nay. Thiền định Phật giáo đượcxem như một phương cách chữa trị, và giờ đây có nhiềunhà tâm lý trị liệu đã thử dùng phương cách này như mộtphần trong công tác trị liệu của họ.

Tuynhiên, kinh nghiệm cho thấy rằng hành thiền tự nó không thểcung cấp một sự trị liệu hoàn toàn đầy đủ. Cần phảicó các hỗ trợ ngoại vi. Các thiền sinh ngày nay, đặc biệtđã bị ảnh hưởng sâu đậm của văn minh vật chất, khiếnhọ không có sự kiên cường, trì chí, và tự tin cần thiếtđể các pháp hành thiền Chỉ-Quán trở nên công dụng hữuhiệu. Một vài vị thiền sư nhận thấy được vấn đềnày, và cho rằng con đường Phật giáo không đủ để cungứng các nhu cầu đặc biệt của chúng ta. Để bổ sung, cácvị ấy thí nghiệm kết hợp với nhiều phương cách khác,chẳng hạn như huyền học, thi ca, tâm lý trị liệu, xã hộihọc, khổ hạnh, nghi lễ tế tự, âm nhạc, v.v.

Thậtra, vấn đề chính ở đây không phải là có một sự khiếmkhuyết nào trong con đường Phật giáo, mà là vì chúng ta đãkhông thực hành đầy đủ phương thức trị liệu của ĐứcPhật.

Conđường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, cácpháp hành thiền Chỉ và thiền Quán, nhưng bao gồm các Giớiđức, bắt đầu bằng năm giới căn bản. Thật thế, cácgiới luật tạo thành bước đi đầu tiên trên con đườngđó, con đường Giới-Định-Tuệ. Khuynh hướng ngày nay thườngkhinh rẻ năm giới luật nầy, cho rằng đó chỉ là các điềulệ của lớp giáo lý vỡ lòng bắt nguồn từ đời sốngcổ xưa, không còn thích hợp cho nếp sống tân tiến hiệnđại.

Quanniệm đó đã bỏ sót vai trò mà Đức Phật đặt ra cho giớiđức: giới đức là phần căn bản của chương trình trịliệu vết thương trong tâm trí. Giới đức đặc biệt đểdùng chữa trị hai thứ bệnh đã tạo ra mặc cảm tự ti:hốihậnchối bỏ.

Khita có những hành động xấu, không hợp với lẽ phải, tathường có những hối hận về việc làm đó, hoặc tìm cáchchối bỏ chúng. Chối bỏ bằng cách tự lừa dối cho rằngcác hành động đó quả thật đã không xảy ra; hoặc chốibỏ bằng cách cho rằng tiêu chuẩn đánh giá các hành độngđó là không có giá trị gì cả. Các phản ứng này giốngnhư các vết thương trong tâm thức. Hối hận giống như mộtvết thương mở, rất nhạy cảm khi sờ đến nó. Chối bỏgiống như vết sẹo chai cứng chung quanh vết da non. Khi tâmthức bị tổn thương như vậy, nó không thể lắng đọng,thảnh thơi an trú vào hiện tại, bởi vì nó không thể annghỉ trên vết thương còn non, hoặc trên vết sẹo chai cứng.

Khitâm thức bị áp đặt bó buộc vào hiện tại, nó chỉ ởđó một cách căng thẳng, méo mó và nửa chừng. Tuệ quánhiện ra cũng bị méo mó và nửa chừng như thế. Chỉ khi nàotâm thức không còn các vết thương và vết sẹo, thì nó mớicó thể an định, thảnh thơi và tự do an trú vào hiện tại,và từ đó nảy sinh tuệ giác một cách toàn vẹn, không bịbóp méo.

Đâylà lúc để giới đức đi vào: giới đức được dùng đểchữa các vết thương và vết sẹo. Lòng tự tin lành mạnhbắt nguồn từ một cuộc sống thiện, hợp với các tiêuchuẩn tốt, thực tế, rõ ràng, nhân bản, và đáng kính. Nămđiều giới (ngũ giới)được đặt ra để có cuộcsống phù hợp với các tiêu chuẩn này.

1-Thực tế:Tiêu chuẩn do giới luật đặt ra rất đơn giản:không cố ý sát hại, không trộm cắp, không tà dâm, khônggian dối, không uống rượu hoặc dùng các chất say. Chúngta đều có thể sống phù hợp với các tiêu chuẩn đó - dùrằng đôi khi có vài khó khăn, bất tiện, nhưng luôn luôncó thể thực hiện theo được.

Cóvài người tìm cách diễn dịch các giới điều này, biếnthành một loạt các tiêu chuẩn có vẻ cao sang hơn - chẳnghạn biến cải điều giới thứ hai, không trộm cắp, thànhđiều giới không phung phí nguồn tài nguyên địa cầu. Làmnhư thế trông có vẻ thanh cao, nhưng chắc chắn rất khó thựchiện được.

Nhữngai có kinh nghiệm điều trị người bị bệnh tâm thần chắcbiết được hậu quả tai hại từ việc áp đặt các tiêuchuẩn quá xa vời, không thực tế. Nếu ta đặt ra những tiêuchuẩn mà bệnh nhân chỉ cần một mức độ cố gắng vàchánh niệm vừa phải là có thể đạt được, lòng tự tincủa họ sẽ gia tăng mạnh mẽ vì họ nhận thấy rằng chínhhọ có đủ khả năng để đạt đến các tiêu chuẩn đó.Nhờ thế, họ có thêm nhiều tự tin để thực hiện các côngviệc khó khăn khác để điều trị bệnh tâm thần của họ.

2-Rõ ràng:Giới điều do Đức Phật đặt ra rất rõ ràng,không có những từ ngữ phân vân nghi hoặc, như: "Nếu như...,Cũng có thể là..., Nhưng mà...". Điều nầy có nghĩa các giớiđiều là những hướng dẫn minh bạch, không có kẽ hở chocác biện minh lý giải lòng vòng, không ngay thẳng. Một hànhđộng chỉ có thể hoặc là phù hợp, hoặc là không phù hợpvới giới điều. Rõ ràng như thế!

Vìvậy, rất dễ tuân theo, không phân vân nghi ngờ. Những aiđã từng dạy trẻ con đều biết mặc dù chúng thường thanphiền về các kỷ luật sắt thép, thật ra, chúng cảm thấyan tâm với những điều lệ rõ ràng, minh bạch, hơn là cácđiều lệ mơ hồ, dễ mặc cả để thay đổi. Cũng như thế,đối với bản thân, các điều luật giới hạnh minh bạchsẽ không cho phép các ý tưởng gian trá ngủ ngầm tìm cáchlén vào khuấy động tâm trí của hành giả.

Nếuta tuân thủ theo giới điều của Đức Phật, ta không thểnào nuôi dưỡng ý tưởng sát hại, và từ đó, ta tạo ramột sự an toàn không hạn chế cho mọi sinh vật. Các giớiđiều khác sẽ giúp tạo ra một sự an ninh về của cải tàisản, lòng tiết hạnh của mọi người, một sự giao tiếpchân thật, và một cấp độ cao về tâm trí sáng suốt, khôngbị lu mờ bởi rượu chè say sưa.

3-Nhân bản: Giới điều của Đức Phật có tính nhân bảncho người giữ giới lẫn những người giao tiếp chung quanh.Nếu bạn giữ giới, bạn tự đặt mình vào qui luật nghiệpquả, và bạn sẽ thấy rằng những gì bạn giao tiếp vớithế giới bên ngoài là kết quả chủ động của nghiệp hành,qua thân-khẩu-ý, mà bạn thực hiện ngay trong giây phút hiệntại. Bạn nhận thức thế giới qua nghiệp hành của chínhbạn, và bạn hoàn toàn chủ động để kiểm soát các phảnứng của bạn ngay trong hiện tại.

Bạnkhông bị chi phối bởi hình dáng sắc đẹp bên ngoài, thânthể, trí thông minh, địa vị tiền bạc, vv., vì đó chỉlà các yếu tố ngoại vi, chỉ là kết quả của nghiệp hànhđã tạo ra trong quá khứ. Bạn hoàn toàn sống trong hiện tại.Các giới điều giúp bạn tập trung tâm trí để sống linhhoạt trong các tiêu chuẩn hiền thiện ngay bây giờ và tạichốn nầy, không truy tầm quá khứ, không vọng mống tươnglai.

Nếubạn chung sống với những người biết giữ giới, bạn sẽthấy mình đang sống trong môi trường hoàn toàn không có nghingờ và sợ sệt. Họ quí trọng hạnh phúc của bạn như thểhạnh phúc của họ. Họ không tranh giành khống chế, khôngtạo cảnh kẻ thắng người thua. Khi họ nói đến lòng từbi và chánh niệm khi hành thiền, bạn sẽ thấy chúng phảnảnh ngay trong các hành động thường ngày của họ, lời nóivà việc làm cùng hợp nhất.

Nhưthế, giới đức không những làm tăng trưởng lòng thiệncủa từng cá nhân, mà còn giúp tạo một xã hội tốt lành- một xã hội gồm những cá nhân đầy tự tin và biết tôntrọng đời sống của nhau.

4-Đáng kính:Khi bạn chọn một tập hợp các tiêu chuẩncho cuộc sống, điều quan trọng bạn cần phải biết là cáctiêu chuẩn đó do ai và nhóm nào đề xướng, có nguồn gốcở đâu, bởi vì khi bạn tuân theo các điều luật đó, hiểnnhiên là bạn phải tham gia vào nhóm đó, được nhóm đó thẩmđịnh, và chấp nhận mực thước đo lường cái đúng vàcái sai do họ đặt ra.

Trongtrường hợp của Ngũ giới, bạn không thể tìm ra một nhómnào khác tốt lành hơn: đó là giới điều của Đức Phậtvà các vị đại đệ tử Thánh tăng đặt ra và thi hành. Trongkinh điển, Ngũ giới thường được gọi là "các tiêu chuẩncủa bậc Thánh nhân". Các vị nầy không chấp nhận giớiluật vì chúng có tính phổ thông hấp dẫn. Họ chấp nhậnchúng qua các kinh nghiệm trong đời sống tu tập của mìnhvà thấy chúng có hiệu quả ích lợi thật sự trên con đườngđưa đến giải thoát tối hậu. Có thể có nhiều ngườivì vô minh mà chê cười bạn khi bạn tuân thủ Ngũ giới,nhưng các bậc Thánh hiền triết sẽ luôn luôn kính trọngvà chấp nhận bạn vào trong cộng đồng của họ, và sựkính trọng của họ là có giá trị nhất, so với những ngườivô minh kia.

Bâygiờ, có thể có nhiều người cảm thấy khó mà tưởng tượngviệc gia nhập vào một nhóm trừu tượng như thế, nhất làkhi họ chưa bao giờ được gặp một vị Thánh nhân. Rấtkhó có được một lòng từ bi và rộng lượng khi xã hộichung quanh ta cười chê các điều đó, và lúc nào cũng đềcập đến sự hấp dẫn của tình dục, quyến rũ vật chấtvà cạnh tranh thương mại áp bức.

Đâylà lúc cần phải có các cộng đồng Phật tử tốt lành chânchánh. Thành viên của các cộng đồng nầy sẽ giúp chúngta thấy được tấm gương của các hành động hiền thiệnvà giới hạnh. Những người này sẽ tạo ra một môi trườngtốt để chúng ta có cơ hội áp dụng rốt ráo con đườngtrị liệu của Đức Phật: hành Thiền và phát triểnTuệ giác trong một đời sống có Giới đức.

Nếuta có được những môi trường tốt lành như thế, ta sẽthấy rằng pháp hành thiền không có vẻ gì là huyền bí vàmù quáng, bởi vì pháp hành đó có căn bản dựa trên thựctế công minh của một đời sống đầy ý nghĩa. Từ đó,bạn có đủ tự tin để sống trong giới đức, sống hoàntoàn tốt lành trong đời sống thật sự đầy ý nghĩa củamột con người, trên con đường tiến đến an vui và hạnhphúc viên dung.

BìnhAnson lược dịch,
tháng10-1999

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/04/2013(Xem: 9543)
Ngày nay việc thực hành Thiền Quán đã được phổ biến rộng rãi khắp thế giới, tuy nhiên, để đạt được sự thành công như hiện nay, pháp hành này đã trải qua nhiều biến đổi tế nhị. Thay vì được giảng dạy như một phần chính yếu của con đường tu tập Phật giáo, bây giờ pháp hành này thường được trình bày như một môn học thế gian mà những kết quả đạt được thuộc về đời sống trong thế giới này hơn là sự giải thoát siêu thế gian.
22/04/2013(Xem: 7772)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 9510)
Tại các quốc gia Âu Mỹ, pháp thiền trong truyền thống Phật giáo Nguyên thủy thường được hiểu như là pháp thiền minh sát, cho đến nổi có nhiều người thực hành trong truyền thống này xem mình như là các thiền giả minh sát. Tuy nhiên, các bản kinh Pali -- tài liệu cổ xưa ghi lại các bài giảng của Đức Phật, không xem thiền minh sát như là một hệ thống tu thiền độc lập nhưng là một thành tố của một cặp kỷ năng hành thiền gọi là Samatha và Vipassanà, An Chỉ và Minh Quán -- hay Chỉ và Quán.
10/04/2013(Xem: 6984)
Như chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới, Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo" là tiêu biểu. Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo, khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh giác và nhiếp phục tham ưu ở đời"
09/04/2013(Xem: 13499)
Người Tây Phương đã có những công trình nghiên cứu đạo Phật một cách qui mô vào cuối thế kỷ 19. Những học giả người Anh, người Đức, tiêu biển nhất là những hội viên của Pali Text Society và Royal Asiatic Academy đã để lại những dịch phẩm, tác phẩm mà đến nay vẫn mang giá trị to lớn cho Phật học thế giới. Một số cá nhân đi xa hơn trở thành những tu sĩ Tây phương tại các quốc gia Phật giáo. Họ tìm thấy môi trường tu tập tuyệt vời khi sống giữa những người Phật tử Á Đông.
09/04/2013(Xem: 5242)
Thiền định , thiền quán và thiền định thiền quán song tu, hay nói gọi theo thời xưa là Chỉ, Quán và Chỉ Quán song tu, của Đại thừa được đặt trên thực tại tối hậu mà các kinh thường gọi là Thật tướng của tất cả các pháp.
04/04/2013(Xem: 6574)
"Như Lai Thiền trong kinh tạng Pàli, hay Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng", là một công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến Như Lai Thiền mà không đề cập đến Tổ Sư Thiền.
02/04/2013(Xem: 2259)
Tất cả những ai đến thực tập Thiền Minh Sát Tuệ [hay Thiền Minh Sát] đều mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai chưa khai triển Trí Tuệ đều mong phát sanh Trí Tuệ thật nhanh. Tất cả những ai đã có vài Tuệ giác đều mong phát triển thêm Trí Tuệ thật nhanh. Mọi người mong phát triển Trí Tuệ thật nhanh.
21/03/2013(Xem: 14110)
NIẾT BÀN, phỏng dịch theo nguyên bản mang tựa đề: “NIRVANA IN A NUTSHELL” của SCOTT SHAW, do Barnes & Noble ấn hành năm 2003. Tác giả Scott Shaw là một nhà văn điêu luyện, một nhà giáo, một nhà võ và đồng thời là một Phật tử thuận thành.
28/12/2012(Xem: 14035)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầuthiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinhđiển thiền ngữ” (六十六條經典禪語),có nghĩa là “66 câu thiền ngữ trong Kinhđiển [Phật giáo]”, được phổ biếntrên internet vào khoảng năm 2004. Bản dịch tiếng Việt được phổ biến năm 2010,có tựa đề là “66 cầu làm chấn động thiền ngữ thế giới” hoặc “66 câu Phật họclàm chấn động thiền ngữ” đều không chuẩn với nguyên tác Hoa ngữ, đồng thời, đãthêm cụm từ “chấn động thế giới” và tỉnh lược từ “kinh điển”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567