Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

43-2. Phẩm Thiên tử Mã huyết (2)

02/05/201111:10(Xem: 13233)
43-2. Phẩm Thiên tử Mã huyết (2)

KINH TĂNG NHẤTA HÀM
Việtdịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượngThích Thiện Siêu
ViệnNghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 3

XXXXIII.2Phẩm Thiên tử Mã huyết(2)

Khiấy, Tệ ma Ba-tuần sân giận bừng bừng, liền bảo đạitướng Sư Tử rằng:

- 'Mautập họp bốn bộ chúng, đi đánh dẹp Sa-môn. Và phải quansát ông ấy có thế lực gì mà dám chiến đấu với ta?'.

Khiấy, Ta lại suy nghĩ: 'Giao chiến với người thường còn khôngthể im lặng huống gì với người hào quý của cõi dục.Cũng nên tranh đua với y ít nhiều'.

NàyTỳ-kheo! Lúc ấy Ta mặc giáp nhân từ, tay cầm cung chánh định,tên trí tuệ, đợi binh chúng kia. Khi đó tệ ma, đại tướngvà binh chúng có đến mười tám ức, mặt mày mỗi mỗi khácnhau, vượn, khỉ, sư tử đến chỗ Ta. Binh chúng La-sát hoặcmột thân có ngàn đầu; hoặc mấy mươi thân chung một đầu;hoặc hai vai ba cổ, ngay tim có miệng; hoặc một tay, hoặchai tay, hoặc bốn tay; hoặc hai tay vác đầu, miệng ngậm thâyrắn; hoặc trên đầu bốc lửa, miệng phun lửa; hoặc haitay banh miệng muốn ngoạm đằng trước; hoặc phanh bụng đitới, tay cầm đao kiếm, mang vác mâu giáo; hoặc cầm chàycối; hoặc vác túi gánh đá, vách cây lớn; hoặc hai chânở trên, đầu ở dưới; hoặc cỡi voi, sư tử, hồ lang, độctrùng; hoặc đi bộ đến, hoặc bay trên không.

Khiấy, tệ ma đem bao nhiêu binh chủng ấy vây quanh cội đạothọ. Ma Ba-tuần đứng bên trái Ta, nói với Ta:

- 'Sa-mônđứng lên mau'.

Tỳ-kheo!Khi ấy, Ta im lặng không trả lời. Như thế đến ba phen, Mabèn nói với Ta:

- 'Sa-mônsợ ta chăng?'.

Tabảo:

- 'NayTa nhiếp tâm không chút kinh sợ'.

MaBa-tuần nói:

- 'Sa-môn!Có thấy bốn bộ binh chúng của ta chăng? Còn Ông một thân,không có khí giới gậy gộc, binh đao, đầu trọc, thân trơ,chỉ mặc ba y, lại nói: 'Ta không sợ'.

Bấygiờ, Ta hướng về Ba-tuần, nói kệ:

Giápnhân, cung chánh định,
Taycầm tên trí tuệ
Phướcnghiệp là binh chúng
Naysẽ hại quân ngươi.

MaBa-tuần lại nói với Ta:

- 'Tacó nhiều việc ích lợi cho Sa-môn, nếu không nghe lời ta,bấy giờ sẽ đốt Ông ra tro, tiêu diệt thân hình. Lại, Sa-môndung mạo đoan chánh, tuổi trẻ tươi đẹp, xuất phát từdòng Xá-lợi, Chuyển Luân vương. Mau rời khỏi chỗ này, tậptheo ngũ dục. Ta sẽ đem đến cho Ông, để Ông làm Chuyểnluân Thánh vương'

Tatrả lời Ba-tuần:

- 'Nhữnglời Ngươi nói, đều là vô thường biến đổi không dừnglâu, cũng phải xả ly, chẳng phải điều Ta ưa thích'.

Ma-tuầnlại nói với Ta:

-'Sa-môn!Hôm nay muốn điều gì? Chí nguyện việc gì? '

Tađáp:

- 'ÐiềuTa nguyện là nơi không lo sợ, an ổn tịnh tịch trong thànhNiết-bàn, dẫn dắt các chúng sanh trôi nổi trong sanh tử,chìm đắm khổ não được đến con đường chánh'.

-'Nếunhư Sa-môn không mau mau đứng lên khỏi tòa, ta sẽ nắm chânÔng ném xuống biển'.

Tađáp Ba-tuần rằng:

- Tatự quan sát trong cõi trời, Người, dù cho Ma hay Thiên ma, Nhơn,Phi nhơn và cả ba binh chúng của Ngươi, không thể khiến Tađộng một mảy may lông.

Mabảo:

- 'Sa-môn!Ngaỳ nay muốn chiến đấu với Ta chăng?'

Tađáp:

- 'Muốncùng giao chiến'.

Mahỏi:

- 'Ôngghét điều gì?'

Tađáp:

- 'Nhữngđiều kiêu mạn, như tăng thượng mạn, tự mạn, tà mạn,mạn trung mạn'.

Manói với Ta:

- 'Ôngdùng nghĩa gì để diệt các mạn đó?'

Tađáp:

- 'Ba-tuầnnên biết! Có nhân Từ tam-muội, Bi tam-muội, Hỷ tam-muội,Hộ tam-muôi, Không tam-muội, Vô nguyện tam-muội, Vô tướngtam-muội. Do Từ tam-muội được Bi tam-muội, do Bi tam-muộiđược Hỷ tam-muội, do Hỷ tam-muội được Hộ (Xả) tam-muội,do Không tam-muội được Vô nguyện tam-muội, do Vô nguyệntam-muội được Vô tướng tam-muội. Do sức của tam-muộinày chiến đấu với ngươi. Hành tận ắt khổ tận, khổtận ắt kết tận, kết tận ắt đế Niết-bàn'.

Manói:

- Sa-môn!Có thể dùng pháp diệt pháp chăng?'

Tađáp:

- 'Cóthể dùng pháp diệt pháp'.

Mahỏi Ta:

- 'Thếnào là dùng pháp diệt pháp?'

Khiấy Ta bảo:

- 'Dùngchánh kiến diệt tà kiến, dùng tà kiến diệt chánh kiến.Chánh tư duy diệt tà tư duy, tà tư duy diệt chánh tư duy. Chánhngữ diệt tà ngữ, tà ngữ diệt chánh ngữ. Chánh nghiệpdiệt tà nghiệp, tà nghiệp diệt chánh nghiệp. Chánh mạndiệt tà mạn, tà mạn diệt chánh mạn. Chánh phương tiệndiệt tà phương tiện, tà phương tiện diệt chánh phươngtiện. Chánh niệm diệt tà niệm. tà niệm diệt chánh niệm.Chánh định diệt tà định, tà định diệt chánh định'.

Manói:

- 'Sa-môn!Hôm nay tuy có những lời như vậy. Ở chỗ này khó khắc phục.Ông mau đứng dậy, đừng để ta nắm chân ném ra biển'.

Talại bảo Ba-tuần:

- 'Ngươitạo phước chỉ một phen, nay được làm Ma vương cõi dục.Xưa kia Ta tạo công đức không thể tính kể. Lời của Ngươihôm nay mới thật khó làm'.

Ba-tuầnđáp:

-'Phướcđã làm chỉ Ông chứng biết. Ông tự xưng tạo vô số phước,ai có thể chứng tri cho Ông?'

- Tỳ-kheo!Lúc ấy Ta duỗi tay mặt, chỉ xuống đất, bảo với Ba-tuần:'Công đức Ta đã tạo địa thần chứng biết'.

Tađang nói lời này, địa thần từ đất vọt lên, chắp taybạch:

- 'BạchThế Tôn! Con đang chứng biết'.

Ðịathần nói xong, Ba-tuần lo buồn khổ não, liền lui không hiện.

Tỳ-kheo!Do phương tiện này nên biết, pháp còn phải diệt huống hồlà phi pháp. Ðã từ lâu, Ta vì các Thầy nói kinh Nhất GiácDụ, không ghi lại văn tự, huống giải thích ý nghĩa. Vìsao? Pháp này sâu xa huyền diệu, các bậc Thanh văn, Bích chiPhật tu pháp này được công đức lớn, được cam lồ, đếnchỗ vô vi.

Thếnào tên là Dụ Nương Thuyền? Nghĩa là y nơi mạn diệt mạn,mạn đã diệt tận, lại không còn những niệm tưởng nãoloạn. Cũng như da con chồn được thuộc kỹ, lấy tay cuộnlại, không nghe tiếng sột soạt, không có chỗ cứng cộm,đây cũng như thế, Như Tỳ-kheo chấm dứt kiêu mạn, khôngcó tăng giảm. Cho nên Ta bảo các Thầy rằng: 'giả sử bịgiặc giam cầm, chớ khởi tâm ác, nên đem lòng từ ban khắpnơi, cũng như da kia rất mềm mại, bèn được chỗ vô vi lâudài'.

Nhưthế, Tỳ-kheo! Nên khởi niệm như thế.

Ngaykhi thuyết pháp này, có ba ngàn Thiên tử ngay tại chỗ ngồicác trần cấu sạch hết, được phép nhãn tịnh. Còn sáumươi Tỳ-kheo khác, lậu tận ý giải, được phép nhãn tịnh.

Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở tại nước Ma-kiệt, bên bờ sông Hằng cùngvới chúng đại Tỳ-kheo năm trăm người câu hội.

Bấygiờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cũngnhư người chăn bò nước Ma-kiệt ngu si, kém trí tuệ, muốnđưa bò từ bờ sông Hằng bên này sang bờ bên kia. Ngườiấy không xem xét bờ bên này, bờ bên kia, chỗ cạn chỗ sâu,liền đuổi bò xuống nước. Trước tiên người ấy đưasang những con bò ốm yếu, bò con còn nhỏ, chúng ở giữadòng nước, rất là gầy yếu, không thể qua tới bờ bênkia. Kế đó, người ấy đưa sang những con bò trung bình, khôngmập không ốm, cũng không qua được bờ, ở giữa dòng nướcchịu khổ não, Kế đến, người ấy đưa sang những con bòrất mạnh, cũng ở giữa dòng nước bị khốn ách.

Nay,các Tỳ-kheo trong chúng của Ta cũng lại như thế. Tâm ý ámđộn không có trí sáng suốt, không phân biệt được con đườngsanh tử, không phân biệt được câu, thuyền của ma; ý muốnqua dòng sanh tử mà không tập tu theo pháp cấm giới thì liềnbị Ba-tuần chiếm phần tiện lợi; theo con đường tà tìmcầu Niết-bàn, mong được diệt độ, trọn không đạt kếtquả; tự tạo tội nghiệp, lại làm người khác chìm trongtội.

Cũngnhư người chăn bò nước Ma-kiệt thông trí tuệ, nhiều trímuốn đưa bò từ bờ này sang bờ kia. Trước hết, ngườiấy xem xét chỗ cạn sâu, đưa những con bò rất mạnh sangbờ bên kia trước; kế đến đưa những con bò trung bình khôngmập không ốm, cũng được sang đến bờ kia; kế đến đưanhững con bò rất yếu cũng được sang không khác những contrước. Bò con đi theo sau, mà đến bờ an ổn.

Nàycác Ty-kheo, Như Lai cũng lại như thế, khéo quán sát đờinày đời sau, quán sát biển sanh tử, con đường của Ma. Tựđem Bát chánh đạo để vượt qua nạn sanh tử, lại dùngđạo này để độ người chưa được độ.

Cũngnhư con bò dẫn đầu, một con đi đúng đường, những conkia thảy đều theo. Ðệ tử của Ta cũng như vậy , dứt sạchhữu lậu thành vô lậu, tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát,trong pháp hiện lại tự thân chứng ngộ, mà tự du hóa, vượtqua cảnh giới Ma đến chỗ vô vi.

Cũngnhư những con bò có sức mạnh lội qua sông Hằng sang bờbên kia. Hàng Thanh văn của Ta cũng lại như thế, đoạn đứtnăm hạ phần kết sử thành A-na-hàm, ngay đời này nhập Niết-bànkhông trở lại cõi này, vượt qua cảnh giới Ma đến chỗvô vi.

Nhưnhững con bò trung bình không mập, không ốm qua được sôngHằng không gặp khó khăn. Ðệ tử của Ta cũng lại như thế,đoạn dứt ba kết sử, dâm, nộ, si mỏng nhẹ thành Tư-đà-hàm,trở lại cõi này một lần, dứt sạch mé khổ, dứt cảnhgiới Ma đến chỗ vô vi.

Nhưnhững con bò yếu đưa các bò con qua được sông Hằng. Ðệtử của Ta cũng lại như thế, đoạn dứt ba kết sử thànhTu-đà-hoàn đến chỗ được độ, vượt qua cảnh giới Ma,vượt qua nạn sanh tử.

Nhưbò con theo mẹ được qua sông. Ðệ tử của Ta cũng lại nhưvậy giữ lòng tin, vâng theo chánh pháp, cắt đứt sự tróibuộc của Ma, đến chỗ vô vi.

Bấygiờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Chỗđược của Ma vương
Khôngtột mé sanh tử,
NhưLai cứu cánh
Thếgian hiện tuệ sáng
Chỗgiácliễu của Phật
Phạmchí không hiểu rõ
Cònkẹt bên sanh tử
Gồmđộ người chưa độ
Naynăm hạng người này
Ngoàira không thể tính
Muốnvượt nạn sanh tử
Tậnsức oai thần Phật.

Chonên, này Tỳ-kheo, nên chuyên nhất tâm kia, không có hạnh phóngdật, cũng nên tìm phương tiện thành tựu Tám đạo phẩmHiền Thánh. Nương đạo Hiền Thánh rồi liền có thể tựvượt qua biển sanh tử. Vì sao? Cũng như người ngu chăn bòkia là hàng ngoại đạo Phạm Chí, tự chìm trong dòng sanh tử,lại làm người khác chìm đắm trong tội.

Nướcsông Hằng tức là biển sanh tử. Người trí tuệ chăn bòlà Như Lai, do Tám đạo phẩm vượt qua nạn sanh tử. Cho nêncác Tỳ-kheo nên tìm cách thành tựu bát Thánh đạo. Như vậy,này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở thành La-duyệt, trong vười xoài của Kỳ-bà-già,cùng với một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử câu hội, đềulà bậc A-la-hán, các lậu đã hết, lục không thanh triệt,chỉ trừ một mình Tỳ-kheo A-nan.

Bấygiờ, vua A-xà-thế nhằm ngày rằm tháng bảy, vào lúc thọtuế, nửa đêm trăng sáng xuất hiện, vua bảo phu nhơn NguyệtQuang:

- Naylà ngày rằm, trăng tròn rất trong sáng, nên làm gì?

Phunhơn thưa:

- Nayngày rằm là ngày thuyết giới, nên tổ chức ca hát đàn nhạc,tự vui với ngũ dục.

Vuanghe lời nầy rồi, không hài lòng. Vua lại hỏi Thái tử Ưu-đà-da:

- Ðêmnay trăng sáng nên làm gì?

Tháitử Ưu-đà-da tâu:

- Ðêmnay thật trong sáng, nên tập họp bốn bộ binh chúng, các nướcngoại bang nào không hàng phục, nên kéo sang chinh phạt.

Khiấy, vua A-xà-thế nghe lời này cũng không vừa ý, lại hỏithái tử Vô Uý:

- Nhưđêm nay rất trong sáng, nên làm gì?

Tháitữ Vô Úy thưa:

- Naycó Phạm Chí Bất lan Ca-diếp biết rành các toán số, gồmthông thiên văn địa lý, mọi người đều tôn trọng kínhngưỡng, có thể đến đấy hỏi về chỗ nghi này. Phạm Chíấy sẽ vì phụ vương, noí lý rất nhiệm mầu, trọn khôngtrở ngại.

Khivua nghe lời nầy cũng không vừa ý. Lại hỏi đại thần Tu-ni-ma:

- Nhưđêm nay rất trong sáng cần phải làm gì?

Tu-ni-matâu vua:

- Nhưđêm nay rất trong sáng, có thầy A-di-chuyên cũng ở gần đây,thầy hiểu biết rộng. Cúi xin đại vương đến hỏi điềunghi.

Vuanghe lời nầy cũng không vừa ý, lại hỏi Bà-la-môn Bà-sa:

- Nhưđêm nay trong sáng, nên làm gì?

Bà-la-môn-Bà-sathưa:

- Nhưđêm nay trăng rằm rất sáng, có thầy Cù-da-lâu ở gần đây,cúi xin đại vương đến hỏi điều này.

Vuanhe lời này cũng không hợp ý, bèn hỏi Phạm chí Ma-dặc:

- Nhưđêm nay trăng rất sáng, nên làm gì?

Phạmchí thưa:

- Ðạivương nên biết, thầy Bỉ-hưu-ca-diên ở gần đây, cúi xinđại vương đến hỏi ý thầy.

Vuanghe lời nầy cũng không hợp ý, lại hỏi Ðại tướng Sách-ma:

- Nhưđêm nay trăng sáng, ta nên làm gì?

Sách-matâu:

- ThầyTiên-tất Lư-trì ở gần đây, biết rành các toán thuật,có thể đến đó hỏi ý kiến.

Vuanghe lời này cũng không hợp ý, lại hỏi đại thần TốiThắng:

- Nhưnay, đêm rằm rất trong sáng, nên làm gì?

TốiThắng thưa:

- Naycó thầy Ni-kiền Tử đọc nhiều các kinh sách, bậc tối thươngtrong các thầy, cúi xin đại vương đến hỏi nghĩa này.

Vuanghe lời nầy cũng không hợp ý, lại nghĩ như vầy : 'Nhữngngười này đều ngu muội, không phân biệt chơn ngụy, khôngcó phương tiện'.

Bấygiờ, Vương tử Kỳ-bà-già đứng hầu bên trái nhà vua. Vuaquay nhìn Kỳ-bà-già hỏi:

- Nhưđêm nay rất trong sáng, nên làm gì?

Kỳ-bà-giàbèn đến trước quỳ tâu vua:

- Hômnay đức Như Lai ở gần đây, đang ngụ trong vườn của thần,cùng với một ngàn hai trăn năm mươi đệ tử, cúi xin đạivương đến hỏi nghĩa này. Bởi vì đức Như Lai là bậc sángsuốt, không có gì không thông suốt, biết việc trong ba đời,thảy đều thấu rõ, tự Ngài sẽ nói việc này với Ðạivương những điều nghi ngờ của Ðại vương sẽ sáng tỏ,tự nhận ra.

Khiấy, vua A-xà-thế nghe lời Kỳ-bà-già nói xong, vui mừng hớnhở thiện tâm phát sanh, liền khen Kỳ-bà-già rằng:

- Lànhthay, lành thay! Vương tử nói lời ấy rất đáng ưa. Vì sao?Nay thân tâm ta rất nóng bức, vì vô cớ giết phụ vương.Lâu nay ta thường suy nghĩ: 'Có ai hiểu được tâm ý ta?'.Nay những điều khanh vừa nói, chính là trúng ý ta. Rất lạ,rất kỳ! Nghe đến tên Như Lai, ta đột nhiên đại ngộ.

Khiđó vua hướng về Kỳ-bà-già nói kệ:

Ðêmnay rất trong sáng
Tâmý không được ngộ
CácÔng mỗi người nói
Nênđến hỏi nghĩa ai
Bấtlan, A-di-chuyên
Ðệtử Ni-kiền Phạm
Khôngnương những thầy ấy
Khôngthể tế độ ta
Ðêmnay rất trong sáng
Trăngtròn không tỳ vết
Nayhỏi Kỳ-bà-già
Nênđến hỏi nghĩa ai?
Khiấy, Kỳ-bà-già lại dùng kệ đáp vua:
Ngheâm thanh nhu nhuyến,
Ðượcthấu tất cả Ma-kiệt
Xinđúng thời đến Phật
Chỗvĩnh viễn không sợ
Vualại dùng kệ nói:
Việclàm xưa của Ta
VớiPhật không lợi ích
HạiPhật tử của Ngài,
Tênlà Tần-ba-sa
Nayrất là hổ thẹn
Khôngdám gặp Thế tôn,
Vìsao nay Ông bảo
Khiếnta đến gặp Ngài.

Kỳ-bà-giàlại dùng kệ đáp nhà vua:

ChưPhật không bỉ thử
Cáckết đã trừ hết
Tâmbình đẳng không hai
Ðấylà nghĩa Phật pháp
Nếudùng hương chiên-đàn
Ðểthoa tay bên mặt
Cầmdao chặt tay trái
Tâmkhông khởi tăng giảm
Nhưthương con La-vân
Mộthơi thở không hai
Tâmấy đối Đề-bà
Oán,thân không có khác
Cúixin Ðại vương đi
Ðếngặp đức Như Lai
Sẽđứt mối nghi ngờ
Khôngcó gì trở ngại.

Khiấy, vua A-xà-thế bảo vương tử Kỳ-bà-già:

- Ôngmau trang nghiêm năm trăm voi đực, năm trăm voi cái, đốt nămtrăm cây đèn.

Kỳ-bà-giàthưa:

- Thưavâng, Ðại vương

Vươngtử Kỳ-bà-già lập tức trang nghiêm một ngàn con voi và đốtnăm trăm cây đèn, đến tâu với vua:

- Xagiá đã xong, Ðại vương biết đúng thời.

Bấygiờ, vua A-xà-thế đem các quần thần đến vườn xoài, giữađường, nhà vua bỗng ôm lòng kinh sợ, lông áo đều dựngđứng, vua quay nhìn Kỳ-bà-già, và nói:

- Nayta không bị Ông gạt chăng? Ông không đưa ta đến chỗ oangia chứ?

Kỳ-bà-giàtâu:

- Thậtkhông có chuyện ấy. Cúi xin Ðại vương đi tới chút nữa,Như Lai cách đây không xa.

Nhàvua ý cũng còn kinh sợ, lại bảo Kỳ-bà-già:

- Chẳnglẽ ta bị người gạt? Ðã nghe nói Như Lai có đem theo mộtngàn hai trăm năm mươi đệ tử, mà nay không nghe tiếng độnggì?

Kỳ-bà-giàthưa:

- Ðệtử của Phật thường nhập định, không có loạn tưởng.Ðại vương hãy đi thêm chút nữa.

Khiấy, vua A-xà-thế liền xuống xe, đi bộ vào cửa, đến trướcgiảng đường đứng im lặng quan sát Thánh chúng, rồi quaylại hỏi Kỳ-bà-già:

- ÐứcNhư Lai hiện giờ ở chỗ nào?

Bấygiờ tất cả Thánh chúng đều nhập Hoa quang tam-muội, chiếusáng cả giảng đường không chỗ nào không khắp. Kỳ-bà-già,đưa tay mặt chỉ về đức Phật nói:

- Ðâylà Như Lai ngồi tại chính giữa, như mặt trời vẹt mây.

VuaA-xà-thế bảo Kỳ-bà-già

- Thậtkỳ lạ! Thật đặc biệt! Nay Thánh chúng này tâm định nhưthế, lại do nhân duyên gì có ánh sáng này?

Kỳ-bà-giàtâu:

- Dosức tam-muội phóng lên ánh sáng

Vualại bảo:

Nhưnay ta quan sát Thánh chúng rất là yên lặng, mong cho thái tửƯu-đà-da của ta cũng được yên lặng vô vi như thế.

VuaA-xà-thế chắp tay, tự xưng nói:

- Cúixin Thế Tôn cho con được gặp.

ÐứcPhật bảo:

- Ðạivương hãy đến đây.

Vuanghe tiếng của Như Lai, lòng rất vui mừng. Ðức Phật thấynhà vua bèn gọi vương hiệu. Khi đó, vua A-xà-thế liền đếnchỗ Phật, năm vóc gieo sát đất, đưa hai tay chạm chân Phậtvà tự nói:

- Cúixin Thế Tôn rũ lòng từ mẫn nhận sự hối quá của con. Phụvương vô tội mà đem giết hại. Cúi xin nhận lòng ăn năn,sau không tái phạm, tự sửa đổi lỗi trước, sửa tâm vềsau.

ÐứcPhật bảo:

- Naychính phải thời, đúng lúc cải hối, đừng để mất cơhội. Người đời có lỗi tự mình sửa đổi, đó gọi làthượng nhơn. Ở trong pháp Ta rất là quảng đại, đúng thờisám hối.

Khiấy, nhà vua lễ chân Phật xong, lui ngồi một bên. Vua bạchPhật:

Concó một việc muốn hỏi, Thế Tôn cho phép mới dám hỏi.

Phậtbảo:

- Cónghi nan, hợp thời cứ hỏi.

Vuabạch Phật:

- Ðờinày tạo phước, được thọ báo hiện đời chăng?

Phậtbảo nhả vua:

- Từxưa đến nay, Ðại vương từng đem điều này hỏi ngườinào chăng?

Vuabạch Phật:

- Xưacon từng đem điều này hỏi những người khác. Con cũng từnghỏi thầy Bất-lan Ca-diếp: 'Thế nào, thưa thầy Bất-lan Ca-diếp,đời này làm phước được thọ báo hiện đời chăng?'. Bấtlan Ca-diếp đáp rằng: 'Không phước, không bố thí, khôngcó quả báo thiện ác đời này đời sau,. Ðời không có nhữngngười thành tựu quả A-la-hán'. Ðang khi con hỏi về sự thọnhận quả báo, thầy ấy trả lời không. Ví như có ngườihỏi dưa, đem mận đáp, nay thầy Ca-diếp này cũng như vậy.Khi ấy, con suy nghĩ: 'Thầy Phạm chí nầy không giải đượcnghĩa của bậc hào tộc dòng vua chúa hỏi. Người nầy tìmcách dẫn giải chuyện khác để trả lời'. Thưa Thế Tôn,con muốn chặt đầu thầy ấy, liền không chấp nhận lờinói ấy mà bỏ đi.

Khiấy, con lại đến chỗ Phạm chí A-di-chuyên mà hỏi nghĩanày, A-di-chuyên đáp:'Nếu ở bờ sông bên trái giết hạichúng sanh, tạo tội vô lượng, cũng không có tội, cũng khôngcó quả ác'. Thế Tôn! Lúc ấy con lại nghĩ: 'Ta hỏi về nghĩathọ báo hiện đời, người này đem chuyện sát hại trảlời ta, cũng người hỏi lê dùng nghĩa mận đáp'. Con liềnbỏ đi.

Conlại đến chỗ Phạm chí Cù-da-lâu hỏi nghĩa này. Ông ấyđáp: 'Ở bờ sông bên mặt làm các công đức không thể tínhkể, trong đó cũng không có quả báo lành'. Bấy giờ, con lạinghĩ: 'Nay điều ta hỏi rốt cuộc không trả lời về lý ấy'.Con lại bỏ đi.

Conlại đến chỗ Phạm chí Bỉ-hưu Ca-diên hỏi về nghĩa này.Ông ấy đáp: 'Chỉ có một người ra đời, một người sanhtử, một người qua lại chịu khổ vui ấy'. Khi ấy, con lạinghĩ: 'Nay ta hỏi về quả báo hiện đời, mà đem chuyện sanhtử đến đáp'. Con lại bỏ đi.

Conđến chỗ thầy Phạm chí Tiên-tỷ Lư-trì hỏi nghĩa này.Ông ấy đáp: 'Ðời quá khứ đã diệt không tái sanh lại.Tương lai chưa đến cũng lại không có, hiện tại chẳng dừngtrụ, dừng trụ tức biến đổi'. Khi ấy, con lại nghĩ: 'Nayta hỏi về quả báo hiện đời, mà đem chuyện ba đời đểđáp, đây không phải chánh lý'. Con liền bỏ đi.

Conđến chỗ Phạm chí Ni-kiền Tử hỏi nghĩa này: 'Thế nào,Ni-kiền Tử, đời này làm phước có được quả báo hiệnđời chăng?' Ông ấy đáp: 'Không nhân duyên chúng sanh tróibuộc, cũng không nhân, cũng không duyên chúng sanh thanh tịnh.Khi ấy con lại nghĩ: 'Những Phạm chí này là ngu si, khôngphân biệt chơn ngụy, như người mù không mắt, không trảlời được nghĩa ta đã hỏi, như đùa cợt với dòng dõivua Chuyển luân'. Con liền bỏ đi.

- ThếTôn! Nay con xin hỏi về nghĩa ấy: Ðời này tạo phước, hiệnđời có thọ báo chăng? Cúi xin Thế Tôn giảng rộng nghĩanầy.

Bấygiờ, đức Phật bảo:

- Ðạivương! Nay Ta hỏi nghĩa Ðại vương, tùy theo chỗ ưu thíchmà trả lời. Ðại vương có đem sách vở, rượu ngon, nhàcửa và quan chức để ban thưởng cho kẻ tôi tớ hầu cậnchăng?

Vuabạch Phật:

- Thưacó.

Phậtbảo:

- Nếunhư người tôi tớ ấy làm việc nhọc nhằn qua thời gianlâu, lại có ban thưởng cho họ chăng?

Vuabạch Phật:

- Tùytheo công lao, ban cấp cho đồ vật dùng, không để có sựoán trách.

Phậtbảo nhà vua:

- Dophương tiện này mà biết rằng đời này làm phước đượcthọ báo hiện tại. Thế nào Ðại vương, người đó ở địavị cao, lại chu đáo với dân, lễ độ, có ban thưởng chăng?

Vuathưa:

- Thưavâng, bạch Thế Tôn. Cho ăn chung món ngon với con, không đểcho oán giận.

Phậtbảo nhà vua:

- Dophương tiện này nên biết xưa kia xuất thân rất thấp, dầndần có nhiều công lao, đồng hưởng thú vui với vua; do điềunày nên hiện đời làm phước, được thọ báo hiện đời.

Phậtbảo nhà vua:

- Ngườicó công lao ấy, trải qua nhiều năm đến tâu với vua rằng:'Hạ thần đã lập công lao, bệ hạ biết rõ'. Người ấymuốn xin Ðại vương được toại nguyện, Ðaị vương cócho phép chăng?

Vuabạch Phật:

- Tùytheo sở nguyện của người ấy, không trái.

Phậtbảo:

- Ngườicó công lao ấy muốn được từ tạ Ðại vương, cạo bỏrâu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, tu hành thanh tịnh,vua có cho phép không?

Vuabạch Phật:

- Thưavâng, cho phép.

Phậtbảo vua:

- Giảsử nhà vua thấy người ấy cạo bỏ râu tóc, xuất gia họcđạo ở bên cạnh Ta, nhà vua sẽ làm gì?

Vuabạch Phật:

- Consẽ giúp đỡ, cúng dường, tùy thời lễ bái.

Phậtbảo:

- Dophương tiện này nên biết, hiện đời làm phước thọ hiệnbáo. Giả sử người có công lao ấy trì giới trọn vẹn,không trái phạm, nhà vua sẽ làm gì?

Vuabạch Phật:

- Suốtđời cung cấp y phục, mền nệm, thức ăn uống, giường nằm,tọa cụ, thuốc men trị bệnh không để thiếu thốn.

Phậtbảo nhà vua:

- Dophương tiện này nên biết thân hiện đời làm phước đượcthọ báo hiện tại. Giả sử người ấy đã làm Sa-môn, dứthết hữu lậu, thành tựu vô lậu tâm giải thoát, trí tuệgiải thoát, tự thân chứng đạo và tự du hóa, sanh tử đãtận, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã xong, không cònthọ thân sau, biết một cách như thật. Vua sẽ làm gì?

Vuabạch Phật:

- Consẽ suốt đời phụng sự cúng dường y phục, mền nệm, thứcăn uống, giường nằm, tọa cụ, thuốc men trị bệnh, khôngđể thiếu.

Phậtbảo:

- Dophương tiện này nên biết đời này làm phước được thọhiện báo. Giả sử người ấy hết tuổi thọ, nơi cảnh giớiVô dư Niết bàn mà diệt độ. Vua sẽ làm gì?

Vuabạch Phật:

- Sẽxây tháp lớn ở ngã tư đường, dùng hương hoa cúng dường,treo tràng phan bảo cái, phụng sự kính lễ. Vì sao? Ngườiấy là thân Trời không phải thân Người.

Phậtbảo nhà vua:

- Dophương tiện này nên biết đời này làm phước được thọhiện báo.

Vuabạch Phật:

- Naycon do những ví dụ ấy được hiểu rõ. Hôm nay Thế Tôn nóilại nghĩa ấy. Từ nay về sau con xin tin thọ nghĩa ấy. Cúixin Thế Tôn nhận con làm đệ tử, tự quy y Phật, Pháp, Tỳ-kheo,Tăng. Nay con lại sám hối đã như kẻ ngu si, phụ vương khôngcó lỗi mà đem sát hại. Nay đem thân mạng tự quy . Cúi xinThế Tôn trừ tội lỗi ấy, diễn nói diệu pháp, được anổn lâu dài. Như con tự biết đã làm tội báo, không có cănlành.

Phậtbảo nhà vua:

- Trênđời có hai hạng người không tội, khi mệnh chung đượcsanh lên trời như trong khoảng duỗi cánh tay. Thế nào là hai?Một là người không tạo gốc mà tu thiện; hai là ngườitạo tội mà cải hối việc đã làm. Ðó là hai hạng ngườikhi chết sanh lên trời không trở ngại.

Bấygiờ, Thế Tôn bèn nói kệ:

Ngườilàm hạnh rất ác,
Hốilỗi chuyển sang nhẹ
Luônhối không lười nghỉ
Gốctội đã nhổ sạch.

Chonên, này Ðại vương, nên dùng pháp trị dân, chớ dùng phipháp trị hóa, khi thân hoại mang chung sẽ được sanh lên cõilành. Người ấy đã mạng chung mà danh tiếng đồn khắp mọinơi, lan cả bốn phương. Người đời sau ca tụng rằng: 'Xưakia có vị vua dùng Chánh pháp trị hóa, không có cong vạy'.Mọi người đều truyền tụng xưng tán nơi vị vua ấy sanhra. Nhà vua sẽ tăng tuổi thọ, không chết yểu. Cho nên, nàùại vương, nên phát tâm hoan hỷ hướng về ngôi báu Phật,Pháp, Thánh chúng. Như thế, Ðại vương, nên học điều này!

Bấygiờ, vua A-xà-thế liền từ chỗ ngồi đứng dạy, cúi đầulễ chân Phật, cáo từ lui ra. Vua đi không xa, Phật bảo cácTỳ-kheo:

- Nayvua A-xà-thế, nếu không giết phụ vương, sẽ được chứngsơ quả của bậc Sa-môn, đứng vào hàng bốn đôi tám bậc.Cũng được Tám đạo phẩm Hiền Thánh, trừ bỏ tám ái, vượtqua tám nạn. Tuy vậy, ngày nay cũng được hạnh phúc lớn,được lòng tin vô căn. Thế nên Tỳ-kheo, người làm tội,nên tìm phương tiện thành tựu lòng tin vô căn. Trong hàngđệ tử Ưu-bà-tắc của Ta, người được lòng tin vô cănlà A-xà-thế vậy.

Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở tại Xá vệ, rừng Kỳ đà, vườn Cấp Cô Ðộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ởđời có tám việc, chúng sanh xoay chuyển theo đó. Thế nàolà tám? Một là lợi, hai là suy, ba là hủy, bốn là dự, nămlà xưng, sáu là cơ, bảy là khổ, tám là lạc.

Nhưthế, này Tỳ-kheo, tám việc này tùy theo đời xoay chuyển.Này các Tỳ-kheo, nên tìm phương tiện trừ tám việc này.Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- NhưLai xuất hiện ở thế gian, lại nơi thế giới này thành Phậtđạo, song không đắm trước nơi tám việc của thế gian,mà còn điều phục nó. Cũng như hoa sen phát sanh từ bùn, rấtlà tươi đẹp thanh khiết không dính nước đục, là vậtđược chư Thiên yêu kính, thấy rồi tâm vui thích; Như Laicũng lại như thế, do bào thai sanh ra, trong ấy trưởng dưỡngđược thành thân Phật. Cũng như ngọc lưu ly, trân bảo tịnhthủy, không bị bụi trần làm nhiễm; Như Lai cũng lại nhưthế, cũng sanh nơi thế gian không bị tám việc của thế gianlàm nhiễm trước.

Chonên, các Tỳ-kheo nên siêng năng tấn tu hành tám pháp. Nhưthế, này các Tỳ-kheo nên học điều này.

Bấygiờ, các Tỳ- kheo nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cótám hạng người lưu chuyển trong sanh tử mà không trụ sanhtử. Thế nào là tám? Hạng người hướng về Tu-đà-hoàn,đắc Tu-đà-hoàn, hướng Tư-đà-hàm, đắc Tư-đà-hàm; hướngA-na-hàm, đắc A-na-hàm; hướng A-la-hán, đắc A-la-hán.

CácTỳ kheo! Ðó là tám hạng người lưu chuyển trong sanh tửmà không trụ sanh tử.

Chonên, các Tỳ-kheo nên tìm phương tiện vượt qua nạn sanh tử,chớ trụ trong sanh tử. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên họcđiều này!

Bấygiờ, các Tỳ kheo nghe lời Phật dạy xong, vui vẻ vâng lờilàm.

Mãhuyết, trai, Nan-đà
Ðề-bà-đạt,thuyền bè
Chănbò, tín vô căn
Thếpháp, thiện tám người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567