- Bài 01: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 02: Kinh Thủ Lăng Nghiêm (giải nghĩa)
- Bài 03: Kinh Thủ Lăng Nghiêm (giải nghĩa)
- Bài 04: Kinh Thủ Lăng Nghiêm (giải nghĩa)
- Bài 05: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 06: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 07: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 08: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 09: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 10: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 11: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 12: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 15: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 16: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 17: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 18. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 19. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 20. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 21: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 22: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 23: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 24: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 25: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 26: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 27: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 28: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 29: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 30: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 31: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 32: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 33: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 34: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 35: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 36: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 37: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 38: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 39: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 41: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 42: Kinh Thủ Lăng Nghiêm (giải nghĩa)
- Bài 43: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 44: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 45: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 46: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 47: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 48: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 49: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 50: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 51: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 52: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 53: Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng giải
- Bài 54: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 55: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 56: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 57: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 58: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 59: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 60: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 61: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 62: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 63. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 64. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 65. Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 66. Kinh Thủ Lăng Nghiêm giải nghĩa
- Bài 67. Kinh Thủ Lăng Nghiêm giải nghĩa
- Bài 68. Kinh Thủ Lăng Nghiêm giải nghĩa
- Bài 69: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 70: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 71: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 72: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 73: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 74: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 75: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 76: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 77: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 78: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 79: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 80: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 81: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 82: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 83: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 84: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 85: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 87: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 88: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 89: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 90: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
- Bài 91: Kinh Thủ Lăng Nghiêm
GIẢI NGHĨA
Toàn Không
(Tiếp theo)
2). CHỈ CHỖ ĐIÊN ĐẢO
Ngay đó, A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay đảnh lễ, quỳ gối bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu cái tánh thấy nghe này thật chẳng sanh diệt, sao Thế Tôn lại nói chúng con lạc mất chân tánh, hành theo điên đảo? Xin Phật từ bi, rửa sạch trần cấu (1) cho chúng con.
Tức thời, Như Lai duỗi cánh tay sắc vàng, ngón tay chỉ xuống, bảo với A Nan:
- Nay ông thấy tay ta là chánh hay đảo?
A Nan đáp:
- Chúng sanh thế gian cho đây là đảo, mà con thì chẳng biết thế nào chánh, thế nào đảo.
Phật bảo A Nan:
- Nếu người thế gian cho đây là đảo thì lấy gì làm chánh?
A Nan đáp:
- Như Lai đưa cánh tay chỉ lên trời gọi là chánh.
Phật liền giơ cánh tay lên, bảo rằng:
- Theo tánh thấy là chánh, theo cảnh trần là đảo; tánh thấy chẳng có chánh, đảo, cảnh trần mới có chánh, đảo, nay chẳng theo tánh thấy mà duyên theo cảnh trần, đã là một lớp điên đảo. Lại, theo lý lẽ thường, cánh tay chỉ xuống thuận theo thân là chánh, cánh tay chỉ lên nghịch với thân là đảo; nay người thế gian đầu đuôi đổi nhau, cho thuận là đảo, cho nghịch là chánh, thành điên đảo bội phần. Vậy đem thân ông so với pháp thân thanh tịnh của Như Lai thì được biết rõ, thân Như Lai gọi là Chánh Biến Tri (2), thân các ông gọi là tánh điên đảo (3). Ông hãy quán xét kỹ giữa thân ông và thân Phật, cái cho là điên đảo ấy, ở chỗ nào gọi là điên đảo?
GIẢI NGHĨA
(1) Trần cấu: Là dính mắc bụi bặm ô uế dơ bẩn, dính mắc và bị ràng buộc với những sai trái của thế gian.
(2) Thân của chánh biến tri: Là pháp thân thanh tịnh của Chư Phật, biết rõ tâm bao trùm cả vạn pháp trong pháp giới từ vô thủy đến vô chung.
(3) Thân của tánh điên đảo: Là thân tứ đại của chúng sinh, do bị năm ấm (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) làm chướng ngại nên thấy biết sai lầm, chấp tâm ở trong thân, chấp pháp ở ngoài thân, thuận cho là nghịch, nghịch cho là thuận.
Khi đó, Tôn giả A Nan Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay đảnh lễ, quỳ gối thưa: “Nếu cái tánh thấy nghe này thật chẳng sinh diệt, sao Thế Tôn lại nói chúng con lạc mất chân tánh, hành theo điên đảo? Xin Phật từ bi, rửa sạch trần cấu cho chúng con”. Đến đây, mặc dù đã hiểu tính thấy nghe ngửi v.v… chẳng sinh diệt, nhưng Tôn giả A Nan Đà đại diện cho hàng chúng sinh phàm phu sinh khởi thắc mắc tại sao Thế Tôn lại quở “mọi người lạc mất chân tính, hành theo điên đảo là thế nào?”
Tức thời, Như Lai duỗi cánh tay sắc vàng, bàn tay và các ngón tay chỉ xuống, rồi Ngài bảo với Tôn giả A Nan Đà: “Nay ông thấy tay ta là chính hay đảo?” Ở đây Đức Phật lấy cánh tay làm thí dụ cho dễ hiểu về sự khác biệt giữa chính và đảo, giữa đúng và sai, giữa phải và trái... của thế gian.
Tôn giả đáp: “Chúng sanh thế gian cho đây là đảo, mà con thì chẳng biết thế nào là chính, thế nào là đảo”. Nghĩa là theo thế gian thì bàn tay chỉ xuống đất là đảo.
Đức Phật bảo Tôn giả: “Nếu người thế gian cho đây là đảo thì lấy gì làm chính?”
Tôn giả đáp: “Như Lai đưa cánh tay chỉ lên trời gọi là chính”. Nghĩa là theo người thế gian thì bàn tay chỉ lên trời là chính.
Đức Phật liền giơ cánh tay lên, bảo rằng: “Theo tính thấy là chính, theo cảnh trần là đảo; tính thấy chẳng có chính có đảo, cảnh trần mới có chính có đảo, nay chẳng theo tính thấy mà duyên theo cảnh trần, đã là một lớp điên đảo”. Nghĩa là tính thấy chẳng có chính đảo, tính thấy không sinh diệt nên là chính, còn theo cảnh trần thì luôn luôn thay đổi nên là vô thường là phụ, chẳng phải chính, nên nó là đảo vậy.
Vì vậy cho nên Ngài giải thích: “Lại, theo lý lẽ thường, cánh tay chỉ xuống thuận theo thân là chính, cánh tay chỉ lên nghịch với thân là đảo; nay người thế gian đầu đuôi đổi nhau, cho thuận là đảo, cho nghịch là chính, thành điên đảo bội phần”. Chính ra chúng ta không nên chấp cho thế này là chính thế kia là đảo mà chỉ nên diễn tả đúng như nó là, thì sẽ bớt đi cái mà Đức Phật gọi là “điên đảo”.
Đức Phật dạy: “Vậy đem thân ông so với pháp thân thanh tịnh của Như Lai thì được biết rõ, thân Như Lai gọi là thân Chính Biến Tri, thân các ông gọi là tính điên đảo; ông hãy quán xét kỹ giữa thân ông và thân Phật, cái cho là điên đảo ấy, ở chỗ nào gọi là điên đảo?”
Chúng ta thấy pháp thân thanh tịnh tức diệu tâm sáng tỏ chân thật là gốc, thấy nghe tỉnh biết (kiến văn giác tri) tức là vật do diệu tâm hiện ra là ngọn; về gốc là chính, theo ngọn là đảo, ví như bọt nổi nơi biển, thì phải nhận biển là gốc là chính, nhận bọt là phụ là đảo.
Khi Đức Phật hỏi Tôn giả A Nan Đà: “Ông thấy tay ta là chính hay đảo?” thì nên ở nơi tính thấy của mình thấy thế nào thì nói thế ấy, chẳng nên nơi tay Phật cho thế nào là chính, thế nào là đảo. Nếu dùng mắt để thấy tay Phật, lại ở nơi tay Phật để phân biệt chính hay đảo, ấy là duyên theo sáu thức, bỏ gốc theo ngọn, nên gọi là tính điên đảo.
Để nắm vững vấn đề, xin giải thích thêm: khi đó nên ở nơi tính thấy, chẳng nên nơi tay của Phật cho thế nào là chính, thế nào là đảo theo ý của mình. Nghĩa là khi thấy cánh tay của Phật duỗi thẳng theo chiều thân Phật thì nhận ra liền là như thế, đây là nhận ra ngay gốc, không có tư tưởng ý nghĩ so sánh phân biệt gì cả, đó mới là chính. Chẳng nên ở nơi tay Đức Phật cho là ngược suôi do sự phân biệt so sánh, vì đây là do ý nghĩ là cái thay đổi sinh diệt, nên nói nó là ngọn chẳng phải gốc, chẳng phải là chính vậy.
3). TÂM PHAN DUYÊN VÀ TÍNH THẤY(Còn tiếp)